(Phan
Huy Dũng, Tác phẩm văn học
trong nhà trường – Một góc nhìn, một cách đọc, Nxb
Giáo dục Việt Nam, H.2009)
Việt Bắc được in trong tập thơ cùng tên xuất bản năm 1954. Đây
là một đỉnh cao nghệ thuật của Tố Hữu thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
đồng thời cũng là một tác phẩm lớn của nền thơ cách mạng Việt Nam .
Bài thơ được viết vào tháng 10 năm
1954, giống như lời hát giã từ căn cứ địa cách mạng sau 15 năm gắn bó. Bài thơ
cũng mang tính chất của một bản tổng kết lịch sử (dĩ nhiên là theo kiểu của
nghệ thuật) nhằm khép lại một thời kỳ cách mạng và hướng về một chặng đường mới
của lịch sử dân tộc.
Cả bài thơ được bao bọc trong một
nỗi nhớ nồng nàn, tha thiết. Chỉ trong đoạn trích của sách giáo khoa, ta đã
thấy có đến 35 lần từ nhớ được nhắc tới. Điều này chứng tỏ
nội dung cảm xúc chính của bài thơ là nỗi nhớ - một nỗi nhớ hướng tới nhiều đối
tượng cụ thể, khác biệt mà thống nhất với nhau. Nói cụ thể hơn, nỗi nhớ trong
bài hướng về ba đối tượng chính: nhớ Việt Bắc - quê hương cách mạng; nhớ một
thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng; nhớ công ơn Bác và Đảng đã đưa dân tộc
đi tới bến bờ thắng lợi. Tất nhiên, từ nhớ trong bài thơ không chỉ mang hàm nghĩa
hồi tưởng về một cái gì đã qua. Trong nhớ còn hàm chứa sự đánh giá, ghi
công, sự nhắc nhở những người Việt Nam yêu nước hãy đừng quên bao năm
tháng đẹp đẽ đã tắm mình trong cuộc sống cách mạng. Vì vậy, nói nhớ cũng là để hướng ý thức xã hội nhìn về
cái tương lai vốn đã được xây đắp nền móng vững chắc từ quá khứ. Do đề cập
những vấn đề lớn, những tình cảm lớn, những lẽ sống lớn của cả cộng đồng, bài
thơ Việt Bắc mang tính chất sử thi rất rõ.
Bài thơ có nghệ thuật đậm đà tính
dân tộc với mấy biểu hiện nổi bật:
Thể
thơ lục bát truyền thống được sử dụng rất thành công. Giọng điệu thơ có đoạn
mộc mạc, giản dị như ca dao, có đoạn điêu luyện, trau chuốt như Truyện Kiều (đặc biệt là đoạn tả cảnh bốn mùa
Việt Bắc). Điều đáng chú ý khác là tác giả đã đưa vào thể lục bát vốn có đặc
trưng mềm mại cái hơi thở anh hùng ca, khiến khả năng biểu đạt của thể thơ này
tăng lên đáng kể (đoạn miêu tả đêm Việt Bắc trong mùa chiến dịch là một ví dụ
tiêu biểu).
Bài thơ vận dụng rất sáng tạo lối
kết cấu đối đáp quen thuộc của các bài ca trữ tình dân gian. Lời hỏi và lời đáp
cứ luân phiên một cách đều đặn cho đến hết bài, thể hiện sâu sắc tâm tình của
cả người đi (những cán bộ kháng chiến) lẫn kẻ ở (Việt Bắc). Nhờ hình thức đối
đáp, giọng điệu bài thơ có được sự chuyển đổi linh hoạt và nhà thơ có cơ hội kể
được nhiều về các kỷ niệm kháng chiến bằng những lời lẽ tràn đầy tình cảm gắn
bó, yêu thương.
Bài thơ dùng rất đắt các đại từ
xưng hô mình, ta vốn xuất hiện nhiều trong ca dao tình
yêu. Nhờ khéo lợi dụng khả năng thay thế và hoán đổi vị trí cho nhau của hai
đại từ này, tác giả đã khẳng định được một điều rất có ý nghĩa: mình và ta,
kẻ ở và người đi, Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến tuy hai nhưng là một.
Với hai đại từ mình và ta,
bài thơ Việt Bắc có dáng dấp của một khúc ca tình yêu
dù tác phẩm chuyên chở nội dung chính trị và cách mạng.
Việt Bắc chứa đựng rất nhiều thi liệu của thơ truyền thống, đặc
biệt là thơ dân gian. Những hình ảnh như chiếc
áo, vầng trăng, mái đình, cây đa,... những cách dùng từ, dùng ẩn dụ, tỉ dụ,
hoán dụ đặc biệt Việt Nam
đã thực sự đưa tới cho bài thơ một vẻ thân quen, gần gũi, rất dễ tiếp nhận đối
với đại chúng.
*
* *
Như đã nói, bài thơ Việt Bắc được tổ chức dựa trên chuỗi lời đối
đáp của hai nhân vật hư cấu, một bên đại diện cho Việt Bắc và một bên đại diện
cho những người kháng chiến[1].
Tuy các đại từ mình, ta đã được dùng một cách đắc địa trong
bài thơ, nhưng độc giả không thấy có nhu cầu phân định xem kẻ ở và người đi, ai
là nam, ai là nữ, mà phân định cũng không được vì rất khiên cưỡng. Chính nội
dung các lời đối đáp đã tạo nên quy ước ngầm đó. Phải nói rằng đây là điểm hết
sức độc đáo trong nghệ thuật thơ Tố Hữu, trên phương diện tiếp nhận những kinh
nghiệm nghệ thuật phong phú của nền thơ dân gian.
Bước vào thế giới nghệ thuật của
bài thơ, ta gặp ngay những câu hỏi dồn dập, thiết tha mà Việt Bắc nêu lên cho
người ra đi. Những câu hỏi đó một mặt tạo nên áp lực tình cảm, mặt khác tạo cớ
cho người ra đi biểu hiện bao nỗi nhớ đang trào dâng trong lòng mình. Nếu trong
lời của kẻ ở xuất hiện liên tục hai từ có
nhớ biểu thị sự băn khoăn,
nhắc nhở, thì trong lời người đi, theo một quan hệ hô ứng nhịp nhàng, các cụm
từ nhớ từng, nhớ sao đã có mặt để dứt khoát khẳng định tình
cảm sâu nặng của những người kháng chiến đối với quê hương cách mạng.
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng
chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người
thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối
Lê vơi đầy.
Dòng đầu tiên của đoạn thơ vừa
trích có một so sánh đáng chú ý. Không phải nhân vật trữ tình đang biểu lộ nỗi
nhớ người yêu mà biểu lộ nỗi nhớ đối với Việt Bắc. Như ta đã biết, thơ Tố Hữu
hầu như không nói về tình yêu trai gái, nhưng điều đó không có nghĩa là cảm xúc
trong thơ ông không đạt tới độ ngây ngất, mặn nồng. Chiếm trọn sự chú ý của ông
là những vấn đề lớn, những tình cảm lớn hướng về đất nước, nhân dân. Khi thể
hiện những vấn đề, những tình cảm ấy, ông đã nói bằng ngôn ngữ của một tình
nhân say đắm nhất. Quả thực, đằng sau câu thơ, ta vẫn nhận ra được nỗi nhớ
nhung dịu ngọt như nỗi nhớ nhung của những người yêu nhau. Nỗi nhớ nhung ấy cứ
lửng lơ, ám ảnh hoài tâm trí của người đi, khiến người đi không nén được, phải
thốt lên một câu nửa như cảm thán, nửa như nghi vấn chứa đựng một vẻ gợi cảm
rất đặc biệt.
Trong 5 dòng thơ tiếp đó, những
cảnh sắc thân thuộc của quê hương Việt Bắc đã được tái hiện bằng bút pháp chấm
phá. Quả thực, nhà thơ đã không tả cái gì thật chi tiết mà chỉ làm việc nhắc
gợi. Đối với độc giả, nhất là những người trong cuộc, chừng ấy cũng đủ khiến họ
bồi hồi. Hình ảnh trăng lên
đầu núi có thể đánh động ký
ức về một buổi gặp gỡ, hẹn hò; nắng
chiều lưng nươngthì gợi nhớ về những khoảnh khắc cuối ngày đong đầy niềm
xao xác; bếp lửa lại làm sống dậy trong tâm trí người
đọc cảnh quần tụ ấm cúng; khói
cùng sương khơi lên nỗi cảm
thương đối với những bản làng chìm khuất sau mây mù... Cụm từ nhớ từng được lặp lại hai lần như muốn khẳng
định rằng người đi không quên bất cứ một sự vật nào, một địa điểm nào. Từ ngòi
Thia, sông Đáy, suối Lê đến những bờ tre, rừng nứa, tất cả đều có chỗ đứng
trong tình cảm của người từng có một thời sống gắn bó với nơi này. Suối Lê có
thể khi đầy, khi vơi, nhưng nỗi nhớ về suối Lê, cũng như nỗi nhớ về Việt Bắc
nói chung có lẽ lúc nào cũng cứ tràn bờ...
Mặc dù chia xa, người ra đi không
thể nào quên một thời gian khổ được sống giữa lòng dân Việt Bắc:
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay
ngọt bùi...
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui
đắp cùng.
Tình người sáng lên giữa hoàn cảnh
ngặt nghèo, cam go bao giờ cũng để lại những ấn tượng đậm đà. Việt Bắc đã chia
sẻ với những người kháng chiến từ bát cơm, củ sắn rất cụ thể của đời sống vật
chất đến những ngọt bùi, đắng cay khôn tả xiết của đời sống tinh thần. Chúng ta
luôn bên nhau, lúc nào cũng mình
đây, ta đó quấn quýt. Các chi
tiết được nêu trong đoạn thơ vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng.
Tất cả chúng đều hướng người đọc tới chỗ nhận thức được cái giá trị to lớn của
tinh thần “chung lưng đấu cật”, “đồng cam cộng khổ” mà Việt Bắc cùng những
người kháng chiến từng nêu cao. Chi tiết đắp chung chăn rất gợi không khí, vốn
đã được nói tới không ít lần trong thơ kháng chiến chống Pháp, giờ lại xuất
hiện ở đây với những thông tin nghệ thuật mang tính khái quát. Chăn sui dĩ
nhiên chưa thể chống lại được cái rét thấu xương nơi núi rừng, nhưng trên thực
tế, nó đã sưởi ấm được hồn người, đã gắn kết được tình người, cũng như củ sắn
dù chưa đủ no lòng nhưng vẫn có thể làm dịu đi những cơn đói rất thật bằng mùi
hương tinh thần ngọt bùi của nó.
Nhắc tới những khó khăn mà mình đã
trải, người ra đi càng thương sự vất vả của đồng bào Việt Bắc. Có cái gì thật
ám ảnh, thật day dứt trong hình ảnh tấm lưng trần của người mẹ vùng cao:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp
ngô...
Thơ ca lãng mạn trước cách mạng
thường thích nói tới những tấm lưng ong, lưng eo thon thả, gợi tình của thiếu
nữ (Bồng bềnh mun chảy óng lưng thon –
Vũ Hoàng Chương). Còn ở đây là tấm lưng sạm đen, cháy nắng của một người lao
động. Chỉ với chi tiết ấy thôi – một chi tiết hết sức hiện thực – tác giả đã
gợi lên được rất chính xác cảnh sống cay cực phải vật lộn thường xuyên với
miếng cơm, manh áo của những người dân miền núi Việt Bắc.
Vẫn tiếp tục nói về một thời gian
khổ nhưng các câu thơ sau lại nghiêng về nhấn mạnh tinh thần lạc quan của những
người kháng chiến:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những
giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang
núi đèo
Các câu thơ đã đưa ra được những
chi tiết khá điển hình về đời sống chiến khu : có cơ quan, có lớp học, có tiếng
đọc bài, có tiếng hát “khai hội”, có ánh đuốc bập bùng cháy giữa đồng khuya...
Tinh thần “trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” quả đã thấm sâu vào nhận
thức mỗi người, chi phối cách tổ chức cuộc sống cũng như trạng thái tinh thần
phấn chấn của họ. Nhưng điều đáng nói hơn là ta đọc thấy đằng sau các câu thơ
một tâm trạng nôn nao khó tả. Hai từ nhớ
sao được dùng lặp đi lặp lại
trong đoạn thơ cho thấy người đi đang thực sự sống trong nỗi nhớ chứ không phải
chỉ làm cái việc kể chuyện khách quan đơn thuần. Ta có cảm tưởng người đi đang
muốn kêu lên những nỗi niềm dồn chứa trong lòng.
Thế rồi, đợt sóng thứ nhất của cảm
xúc dần lắng xuống, theo âm ba của những thứ tiếng có tính đặc trưng của núi rừng Việt
Bắc:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều
suối xa...
Ai đã từng sống ở miền núi hẳn đều
thừa nhận rằng tiếng mõ trâu lúc chiều về và tiếng chày giã gạo thậm thình bên
suối trong đêm khuya vắng là những tiếng động có một cái gì đó thật khó tả, khó
quên. Chúng vừa thân thuộc lại vừa hoang dại, vừa gần gũi bên tai lại vừa như
vọng về từ một cõi nào xa lơ, xa lắc. Câu cuối cùng có âm hưởng thật hay với sự
luân phiên đều đặn của những thanh bổng, thanh trầm. Đọc nó lên, ta tưởng nghe
được bên tai một dạ khúc tha thiết.
*
* *
Đã đến với bài thơ, độc giả khó mà
quên được đoạn gợi lên phong vị bốn mùa rất riêng của Việt Bắc. Bút pháp tả
cảnh, tả tình ở đây đã đạt tới mức tinh luyện, biểu thị độ viên mãn của một
phong cách nghệ thuật luôn hướng tới sự hài hoà giữa tình cảm cách mạng và nhận
thức cách mạng. Ta về, mình có
nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa
cùng người.
Dòng đầu tiên là một câu hỏi hướng
về người ở lại. Tất nhiên, câu hỏi này không cần phải trả lời. Đó là một câu
hỏi tu từ có chức năng đưa đẩy hoặc gắn kết những lời đối thoại vào trong một
mối thống nhất. Ảnh hưởng của thơ ca dân gian được thể hiện ở đây rất rõ. Thơ
ca dân gian thường có lối thể hiện tình tứ và duyên dáng như vậy. Có thể nghĩ
thêm rằng: chính câu hỏi này đã làm nổi bật tính chất hai chiều của nỗi nhớ
cùng sự thiết tha của tình cảm mà người đi đã dành cho Việt Bắc, nhằm đáp lại
ân tình sâu nặng mà quê hương cách mạng đã dành cho mình.
Từ hoa được dùng trong dòng thơ thứ hai thật
cô đọng mà gợi cảm. Đầu tiên, có lẽ nó muốn chỉ những loài hoa quen thuộc
thường gặp ở núi rừng Việt Bắc. Trong nỗi nhớ nhung trìu mến của người đi, Việt
Bắc như đã trở thành một xứ hoa. Có thể nói cảm xúc của người đi đã được lắng
lọc trong suốt, để còn lại trong kí ức là những cái gì đẹp đẽ nhất, lung linh,
tươi tắn nhất. Nhưng từhoa cũng
cần được hiểu theo nghĩa rộng. Hoa chính là thiên nhiên làm say đắm lòng
người của Việt Bắc, không thể tách nó ra khỏi hình ảnh con người. Nhớ hoa cũng
chính là nhớ người và ngược lại.
Trong tám dòng thơ tiếp theo,
Tố Hữu đã tạo nên được một bộ tranh tứ bình độc đáo về Việt Bắc theo chủ đề Xuân - Hạ - Thu - Đông. Mỗi bức
tranh thơ có giá trị độc lập của nó nhưng điều này không phá vỡ sự hài hoà
chung của cả bộ tranh. Trái lại, vẻ đẹp của mỗi bức chỉ bộc lộ hết trong mối
quan hệ chỉnh thể với những bức còn lại. Khi lần lượt vẽ các bức tranh này, Tố
Hữu đã nhất quán sử dụng bút pháp cứ câu trên tả cảnh thì câu dưới tả người.
Dụng ý của tác giả là khẳng định sự thống nhất giữa cảnh và người đã nói ở
trên. Nhìn chung, bộ tứ bình thơ ở đây đậm đà màu sắc cổ điển với tính chất cân
xứng hoàn mỹ của nó.
Như là một sự ngẫu nhiên, bức tranh
thứ nhất vẽ ra cảnh tạm quy ước là cảnh mùa đông[2]:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài
thắt lưng.
Tuy nói về rừng xanh – một đối tượng từng được nhắc tới
trong thành ngữ rừng xanh núi
đỏ – mà câu thơ - nét vẽ không hề gợi cảm
giác buồn vắng, hiu hắt. Ta thấy hiện lên ở đây hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi giống như những đốm lửa đang bập
bùng cháy giữa nền xanh trầm tịch của rừng già. Nhà thơ đã khéo tạo nên sự
tương phản giữa màu đỏ và màu xanh để làm tăngcường lực thị giác của màu đỏ, tức là màu có thể gợi lên
cảm giác ấm áp, hưng phấn. Tiếp sau, nhà thơ tạo hình một dáng người đi trên
đèo cao. Trong tỉ lệ chung của bức tranh, cái chấm tả người ấy thật bé nhỏ, tuy
vậy, ta không hề có ấn tượng hình ảnh con người bị lấn át. Tất cả là nhờ ở con
dao được tác giả “gài” một cách tự nhiên, đầy “nghệ thuật” ngang thắt lưng
người. Cái ánh nắng được phản chiếu trên lưỡi dao trần đã biến con người trở
thành một điểm sáng di động thu hút cái nhìn của chúng ta. Phải chăng điều tác
giả muốn nói ở đây là thiên
nhiên không che lấp mà thực sự đang tôn lên vẻ đẹp của con người?
Trong bức tranh thứ hai - Xuân - gam màu chủ đạo là gam màu trắng:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt
từng sợi giang.
Đó là một màu trắng trong trẻo rất
phù hợp với việc diễn tả vẻ đẹp tinh khôi, trinh bạch, huyền hoặc đến khó tin
của rừng hoa mơ lúc xuân về. Âm điệu mạnh của cụm từ trắng rừng cuối dòng lục đã thể hiện được cảm
giác choáng ngợp vì hạnh phúc của nhà thơ khi tâm trí bị màu trắng hoa mơ cùng
vẻ xuân dâng ngập đất trời nơi núi rừng Việt Bắc thôi miên, phong toả. Trên cái
nền phong cảnh đẹp đẽ ấy, hình ảnh con người cũng không kém phần quyến rũ với
động tác chuốt từng sợi giang thật khoan thai, thật uyển chuyển. Quả
thực, giữa người và cảnh có sự hoà hợp tuyệt đối. Ta hiểu con người được nói
tới ở đây chính là chủ nhân của mùa xuân, là kẻ đang tô điểm cho sắc xuân vốn
có của đất trời thêm thơ mộng, lãng mạn.
Hướng cái nhìn vào bức tranh thứ ba
- Hạ - ta thấy lênh láng một sắc vàng rực
rỡ:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một
mình.
Câu lục xôn xao “tiếng nói” của cả
màu sắc lẫn âm thanh. Trong tiếng ve kêu (hoặc có thể nghĩ là nghe tiếng ve kêu), ngàn lá phách hối hả
thay màu[3].
Âm thanh đanh sắc của tiếng ve như làm cho màu vàng của rừng phách rung thành
tiếng. Ngược lại, màu vàng của rừng phách như đã thị giác hoá tiếng ve, khiến nó chói chang
trước mắt nhìn. Từ kêu, từ đổ đã thể hiện thật đắt cái không khí rộn
rực rất đặc trưng của mùa hạ. Có thể hiểu đổ
vàng là đồng loạt ngả vàng.
Cũng có thể hiểu rừng phách đổ
vàng là ào ào trút lá vàng
theo một nhịp điệu dứt khoát và mạnh mẽ. Sau những nét tả đầy kích thích đối
với giác quan ở dòng lục, sang dòng bát, một hình ảnh đằm dịu hơn được vẽ ra
như để làm cân bằng lại trạng thái cảm xúc của độc giả. Cái vẻ lẻ loi của cô gái hái măng một mình đã khơi dậy trong ta những rung động
ngọt ngào, sâu lắng. Bức tranh mùa hè thật hoành tráng mà cũng thật đậm tính
trữ tình. Nó dung hợp được vừa những quệt bút mạnh mẽ đầy hứng khởi vừa những
nét vẽ mảnh mai, tinh tế, có thể gợi ra cả một trường liên tưởng mênh mông.
Trong câu lục bát cuối cùng của
đoạn thơ, tác giả tái hiện một cảnh thu mang đặc tính “ý niệm” nhiều hơn là đặc
tính cụ thể, cá biệt:
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình
thuỷ chung.
Cũng như nhiều nhà thơ khác, khi
nói về mùa thu, tác giả không quên nhắc tới ánh trăng. Ánh trăng xanh mát đã
toả lên cảnh vật một không khí thanh bình, yên ả. Từ hoà bình tuy có hơi chung chung, hơi “cứng”,
nhưng không phải không có ý nghĩa. Nó vừa nói được cái dịu dàng của ánh trăng
giữa rừng khuya, vừa phản ánh được ước vọng hoà bình của những người kháng
chiến, lại vừa gợi cho người đọc nghĩ tới bối cảnh khá yên tĩnh của An toàn
khu. Trên cái nền thiên nhiên rất mực nên thơ ấy, tiếng hát ân tình thuỷ chung cất lên nghe thật ấm lòng. Có cần gì
phải phân định xem tiếng hát này là của ai. Trong âm điệu của nó ta nghe rung
lên nỗi niềm của cả người đi lẫn kẻ ở. Từ ngày qua vọng về, tiếng hát đó đã
khéo nói được những tâm tình đang dạt dào trong thì hiện tại...
*
* *
Việt Bắc được viết ra sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã
hoàn toàn thắng lợi. Có lẽ trong ý đồ sáng tạo, Tố Hữu muốn nó phải trở thành
“bản tổng kết lịch sử” một thời kỳ (điều này đã được đề cập ở trên). Thật tự
nhiên khi ta bắt gặp ở đây những đoạn miêu tả hết sức sống động về các giai
đoạn khác nhau của cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, anh dũng.
Đoạn nằm gần cuối phần một của bài
thơ, từ dòng Những đường Việt Bắc của ta... đến Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồngtập trung tái
hiện không khí hào hùng của cuộc kháng chiến lúc “sức ta đã mạnh, người ta đã
đông”. Giọng điệu dìu dặt, thiết tha ở những đoạn thơ trước đến đây đã đổi
thành giọng điệu rắn rỏi, gân guốc, đầy hưng phấn. Tài năng tạo dựng những bối
cảnh lớn của Tố Hữu cũng được bộc lộ một cách hết sức rõ nét tại điểm này.
Trong tám dòng đầu, nhà thơ vẽ lại
vô cùng linh hoạt hình ảnh những đêm Việt Bắc trong mùa chiến dịch:
Những đường Việt Bắc của ta
Quân đi điệp điệp trùng
trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng
mũ nan.
Dân công đỏ duốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn
lửa bay.
Nhìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày
mai lên.
Tại sao lại đêm? Cần nhớ lại hoàn cảnh cuộc
kháng chiến khi đó : ban ngày máy bay địch hoành hành đánh phá nhưng ban đêm
thì chúng đành bất lực, nhường lại ưu thế cho chúng ta. Màn đêm bao la đã trở
thành bạn đồng minh tin cậy của những người kháng chiến. Không phải ngẫu nhiên
mà thơ chống Pháp 1946-1954 nói nhiều về đêm: Những
đêm dài hành quân nung nấu(Nguyễn
Đình Thi), Đêm buông xuống
dòng sông Đuống (Hoàng Cầm)... Trong cảnh sống
bình thường, đêm là lúc vạn vật say chìm trong giấc ngủ, là thời điểm nghỉ ngơi
yên tĩnh. Nhưng trong thời chiến tranh, đêm thường là điểm khởi đầu của những
hoạt động chuẩn bị cho ngày mai thắng lợi.
Hai từ của ta nằm cuối dòng đầu rất có ý nghĩa.
Chúng thể hiện rõ ý thức làm chủ của người kháng chiến đối với đất nước mình
cũng như niềm tự hào về sự bất khả xâm phạm của vùng căn cứ địa. Đây cũng là
một ý thức và niềm tự hào từng được thể hiện khá sâu trong thơ ca kháng chiến
nói chung.
Như để minh họa thêm cho hai từ của ta, nhà thơ kể lại khí thế
bừng bừng trên những con đường hướng về các nơi sẽ diễn ra các trận đánh lớn. Ở
đó ta thấy những dòng người vô tận, có bộ đội, có dân công, có súng đạn, có gánh
gồng, có đuốc sáng, có ánh đèn pha... Các từ tượng thanh và tượng hình như rầm rập, điệp điệp, trùng trùng được đưa vào rất đắt, diễn tả hết sức
chính xác không khí tự tin, hồ hởi bao trùm cả dòng người và sức mạnh cuộn trào
như thác lũ của quân ta. Sự so sánh tiếng chân đi rầm rậpnhư tiếng đất rung có
tác dụng tô đậm qui mô và tầm vóc lớn lao của những sự kiện đang diễn ra. Ta
tưởng như nơi đây đang xảy ra một cơn địa chấn mạnh. Cần nói thêm rằng nhờ so
sánh này, tác giả còn diễn tả được rất hay về sự thống nhất, cộng hưởng giữa
con người và thiên nhiên, trời đất trong một thời điểm lịch sử vô cùng oanh
liệt.
Bên cạnh những nét vẽ trải ra theo
chiều rộng, trong bức tranh thơ này cũng có những nét vẽ phát triển theo chiều
cao. Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan là một “nét vẽ” như thế. Ánh sao trước hết là một hình ảnh tả thực gợi
bối cảnh đêm Việt Bắc ra trận, nhưng nó còn là hình ảnh thấm đẫm tính tượng
trưng. Ta có thể hiểu ánh sao như ánh sáng của niềm tin, ánh sáng
của lý tưởng soi đường, dẫn lối cho ta hành động. Ba sự vật ánh sao, mũi súng, mũ nan hợp thành một hình tượng đẹp, khoẻ
khoắn, vững chãi về mặt tạo hình, đã cho thấy tính chất cao cả của cuộc kháng
chiến cũng như tinh thần lãng mạn chưa bao giờ thiếu trong đời sống chúng ta.
Khi viết câu thơ này, hẳn Tố Hữu đã nhớ tới câu thơ Đầu súng trăng treo mà Chính Hữu viết trước đó vào năm
1948 trong bài Đồng chí.
Tuy mô tả cảnh ban đêm nhưng bức
tranh thơ của Tố Hữu vẫn đầy ắp các chi tiết nói về ánh sáng. Bên cạnh ánh sáng
của sao trời là ánh sáng của lửa đuốc, của đèn pha, của muôn tàn lửa bay. Hai câu thơ Dân công đỏ đuốc từng đoàn - Bước
chân nát đá, muôn tàn lửa bay vẽ
ra một cảnh tượng rực rỡ và hừng hực khí thế bằng những nét bút gân guốc, mạnh
mẽ. Lửa dưới đất và sao trên trời như hoà cùng giọng ca trong một dàn đại hợp
xướng hùng tráng. Cách nói thậm xưng bước
chân nát đá đã diễn tả rất có
ấn tượng sức mạnh đạp bằng mọi gian khó của những đoàn người đi chiến dịch. Với
bước chân ấy của họ, núi rừng như bừng thức. Màn sương dày thăm thẳm tưởng vùi
sâu Việt Bắc trong sự lặng lẽ, u tịch bỗng bị xé rách bởi ánh đèn pha sáng
quắc. Nhìn ánh đèn pha, những người kháng chiến tưởng như thấy chiến thắng đã
gần kề trước mặt[4].
Sự so sánh trong câu Đèn pha
bật sáng như ngày mai lên thoạt
nhìn có vẻ cường điệu. Xét đến cùng, phải so sánh như thế nhà thơ mới nói hết
được niềm phấn chấn tràn ngập lòng người trước sự lớn mạnh vượt bậc của quân ta
lúc cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn cuối cùng.
Bốn dòng cuối của đoạn thơ nói tới
những tin thắng trận dồn dập đổ về Việt Bắc từ khắp các chiến trường trong cả
nước:
Tin vui chiến thắng trăm
miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện
Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De,
núi Hồng.
Những cụm từ vui về, vui từ, vui lên vừa tạo được không khí phấn chấn, rộn
ràng, tíu tít lại vừa diễn tả được ý: Việt Bắc chính là đầu não của cuộc kháng
chiến và niềm vui khắp nơi dồn tụ về đó để rồi từ đó lại toả đi trăm ngả.
Rất đáng chú ý trong đoạn thơ này
là sự xuất hiện của hàng loạt địa danh. Nền thơ kháng chiến của chúng ta có
không ít bài cho thấy tài năng của các tác giả khi đưa địa danh vào thơ, chẳng
hạn bài Tây Tiến của Quang Dũng, bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Cách đưa địa danh vào
thơ của Tố Hữu có phần khác với một số nhà thơ khác. Nếu Quang Dũng chú ý tới
những tên đất có thể gợi ấn tượng về một cái gì hung hiểm, hoang sơ, kì bí và
Hoàng Cầm chú ý tới những tên đất có thể gợi lên những sắc màu truyền thống thì
Tố Hữu lại quan tâm tới những địa danh lừng lẫy chiến công mà tên gọi của chúng
luôn làm nức lòng người. Có thể nói ít khi những từ chỉ tên đầy tính chất hành
chính lại chan chứa chất thơ và vang vọng như thế.
Nhìn chung, đoạn thơ vừa tìm hiểu
trên đậm đà tính chất sử ca và thể hiện rất rõ khả năng tạo dựng
những bức tranh hoành tráng về cách mạng của Tố Hữu. Đọc nó, ta tưởng như được
sống lại thực sự với không khí của một thời đã qua - cái thời của những sự tích
lớn và niềm tin lớn.
1999
=========================================
[1] Thực ra, việc chia bài
thơ thành các phần đối - đáp chỉ có tính chất ước lệ, căn cứ vào những gì xuất
hiện trên bề mặt văn bản. Ta hoàn toàn có thể nói tới một sự phân thân của nhân
vật trữ tình trong bài thơ. Ở đó, anh ta vừa vào vai kẻ ở, vừa vào vai người
đi. Người đi và kẻ ở, suy cho cùng, cũng chỉ là một mà thôi. Những câu hỏi, do
vậy, thực chất chỉ là những câu tự hỏi, tự nhắc trong tinh thần trách nhiệm, ân
nghĩa.
[2] Không có căn cứ để khẳng định rằng ngay từ đầu tác giả đã muốn tạo nên
"bộ tranh" về cảnh và người Việt Bắc trong bốn mùa. Rất có thể lúc
đặt bút viếtRừng xanh hoa chuối..., tác giả chưa nghĩ rằng đây là nét
đặc thù của mùa đông. Nhưng rồi các câu thơ cứ nối tiếp tuôn chảy, tự liên kết
với nhau thành một cấu trúc chặt chẽ. Dưới áp lực của hệ thống, tự nhiên mỗi
câu lục bát (gồm hai dòng) trong đoạn thơ này đảm nhiệm một chức năng rất cụ
thể, rõ ràng. Căn cứ vào văn bản, độc giả vẫn có quyền nói về sự "hữu
ý" của tác giả khi dựng "cảnh mùa đông", mà lại là dựng trước.
Theo lô gích, sau đông sẽ là xuân rồi đến hạ, thu. Để "bức mùa thu"
khép lại đoạn thơ là rất khéo. Chính nó vừa giúp tác giả "tích hợp"
được nhiều mùa thu trong một mùa thu, vừa cho phép ông quy hồi cảm xúc về thời
điểm hiện tại một cách tự nhiên, nhuần nhị.
[3] Có sách chú phách là một loài cây thân gỗ ở rừng Việt
Bắc, nở hoa vàng vào đầu mùa hè. Còn tác giả Tố Hữu thì chú phách là "loại cây gỗ cao, cuối hè đầu
thu thì lá vàng rực lên" (Xem Nhớ
lại một thời, NXB Hội Nhà văn, 2000, tr. 302). Hai cách chú thích trên
không hẳn loại trừ nhau, nhưng có lẽ, ấn tượng mà câu thơ của Tố Hữu gợi lên là
ấn tượng về màu vàng của lá phách.
[4] Vào giai đoạn này, sự hỗ trợ của nước bạn cho cuộc kháng chiến của ta đã
được tăng cường. Sự xuất hiện của những đoàn xe vận tải làm nên một nét mới cho
các "bức tranh" chiến dịch.