Trần Tế Xương (1870 - 1907) thường gọi là Tú Xương, quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Tú Xương có cá tính sắc sảo, phóng túng, khó gò vào khuôn sáo trường quy, nên dù có tài nhưng tám lần thi vẫn chỉ đỗ tú tài. Tú Xương sinh vào giai đoạn giao thời, xã hội có nhiều thay đổi. Xã hội phong kiến già nua chuyển mình trở thành xã hội thực dân phong kiến. Quê hương ông thể hiện rất rõ sự chuyển mình ấy. Hàng ngày, những điều ngang tai trái mắt cứ đập vào mắt ông, gây phản ứng trong tâm trạng, và thể hiện thành hai nội dung lớn trong thơ ông : trữ tình và trào phúng.
Thơ Tế Xương dù là trữ tình hay trào phúng đều thể hiện một cái nhìn sắc sảo của một nhà nho có Tâm và có Tài. Trong thơ ông bao giờ cũng xuất hiện một nhân vật trữ tình với đủ cả dáng vẻ và tâm hồn. Và thơ ông thể hiện thái độ phản kháng đối với thời cuộc. Ông luôn phê phán sâu cay những mặt trái của xã hội. Vì thế giọng thơ thường chua cay và đanh đá.
Thương vợ là bài thơ tiêu biểu cho mảng thơ trữ tình của Tú Xương. Bài thơ thể hiện tấm lòng của nhà thơ đối với vợ, đồng thời thể hiện nhân cách Tú Xương. Đây cũng lại là tâm sự chua cay của người chồng nạn nhân của xã hội lố lăng, đảo điên biến con người trở thành vô tích sự với chính mình và gia đình.
Bài thơ được cấu tạo làm bốn phần theo kết cấu đề, thực, luận, kết. Bài thơ ngợi ca đức hi sinh của những người phụ nữ và sự cảm thông thấu hiểu của người chồng. Ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng với tài năng và tấm lòng, Tú Xương đã tạo nên một bài thơ sâu sắc, chứa đựng những giá trị nhân văn bền vững.
Bài thơ xuất hiện hai nhân vật : người vợ và người chồng. Hình ảnh người vợ hiện lên qua cảm nhận của nhân vật trữ tình người chồng :
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Bốn câu thơ đã khái quát những nỗi vất vả hàng ngày của người vợ bươn chải để kiếm sống và nuôi chồng, nuôi con. Nỗi vất vả của người vợ được thể hiện ngay ở dòng thơ đầu. "Quanh năm" là thời gian không ngừng nghỉ, "mom sông" là địa điểm chông chênh, tất cả đều gợi sự vất vả, cực nhọc. Nguyên nhân của sự vất vả ấy là gánh nặng gia đình. Một hình thức so sánh lạ. Chiếc đòn gánh trên vai người vợ với một bên là năm con, một bên là một chồng. Người chồng là một bên của gánh nặng lo toan ấy. Dường như đó là lời tự trách chua cay. Vì gia đình, vì người chồng có quá nhiều nhu cầu ấy mà người vợ vất vả hơn. Hai câu thơ sau nỗi vất vả như càng tăng tiến. Những từ ngữ như lặn lội, quãng vắng, eo sèo, đò đông có sức gợi. Hình ảnh người vợ vất vả như hiện rõ hơn, day dứt hơn trong cảm nhận của người chồng. Người chồng rất thấu hiểu nỗi cực nhọc của vợ. Thấu hiểu để cảm thông, để trân trọng người vợ thảo hiền. Nhân cách của người chồng thể hiện ở sự thấu hiểu ấy. Không phải ông vô trách nhiệm với gia đình và vợ con mà bởi ông bế tắc.
Giữa lúc cuộc sống xã hội đầy rẫy những chuyện đảo điên :
Nhà kia lỗi phép con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
mà người vợ vẫn nhẫn nại miệt mài, vẫn một lòng một dạ với chồng con. Chính điều đó đã khiến người chồng cảm phục. Ông nói lên sự cảm thông của mình :
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Hai thành ngữ xuất hiện trong hai câu thơ đều có nghĩa diễn tả sự vất vả của người phụ nữ phải nuôi chồng nuôi con. Và cũng ở đây, một lần nữa, người chồng thể hiện sự trân trọng đối với người vợ. "âu đành phận", "dám quản công" không phải là sự cam chịu của người vợ mà đó là lời của nhân vật trữ tình người chồng. Hình ảnh người vợ cứ lặng lẽ làm việc nuôi chồng nuôi con với một đức hi sinh vô cùng lớn lao đã là hình tượng nổi bật trong bài thơ.
Chỉ đến hai câu thơ cuối, người chồng mới bày tỏ thái độ của mình với chính mình. Câu thơ có vẻ như một sự thay đổi mạch cảm xúc khá đột ngột :
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Đó là hình thức một câu chửi. Ai chửi ? Tất nhiên theo mạch cảm xúc của bài thơ thì đây là lời của nhân vật trữ tình. Từ cảm thông đến Thương vợ mà giận mình, giận đời. Giận mình vì là kẻ vô tích sự, đã không giúp gì được cho vợ lại còn trở thành gánh nặng cho vợ trong cuộc mưu sinh đầy vất vả ; giận đời vì đã biến những ông chồng thành kẻ vô tích sự như thế. Trong nhiều bài thơ tự trào, Tú Xương cũng đã thể hiện tâm sự này. Không thể bán mình, biến mình thành kẻ làm thuê cho thực dân và tay sai nên người chồng không thể san sẻ được gánh nặng cho vợ. Người đàn ông, người chồng, con người có nhân cách ấy, trước vất vả nhọc nhằn của người vợ đã cất lên lời chửi. Như tự chửi mình nhưng là chửi đời. Chửi những ông chồng vô tích sự nhưng lại thích hưởng thụ, chửi cuộc đời đen bạc để những người phụ nữ vốn đã vất vả, thiệt thòi lại càng vất vả, thiệt thòi hơn. Chửi “thói đời ăn ở bạc” đã biến những ông chồng không thành kẻ hư hỏng thì cũng thành người vô tích sự.
Là một nhà nho sinh ra vào thời kì Hán học đã thất thế nên một ông Tú chẳng thể giúp gì được cho vợ con. Tâm trạng Thương vợ được trở lại nhiều lần trong thơ Tú Xương. Thấu hiểu và trân trọng sự vất vả của vợ, tình cảm đối với người vợ hiền thảo tảo tần đã khiến Tú Xương đóng góp cho văn học Việt Nam một hình tượng đẹp về người phụ nữ phương Đông. Ngôn ngữ dung dị, đời thường, sử dụng nhiều yếu tố dân gian, với tài năng và tấm lòng, Tú Xương đã tạo nên một bài thơ hay có giá trị nhân văn sâu sắc.
Thương vợ ngợi ca đức hy sinh của người phụ nữ qua hình ảnh bà Tú và sự cảm thông sâu sắc của người chồng qua hình ảnh ông Tú. Bài thơ cũng thể hiện tâm trạng bế tắc của những nhà nho thời Tú Xương, những nhà nho có tài nhưng đành bất lực trước thời cuộc.
Đề tài giản dị, ngôn ngữ không cầu kỳ, trau chuốt, hình thức thơ phá vỡ quy tắc cuả một bài thơ thất ngôn bát cú đường luật, Tú Xương đã đưa vào thơ một cảm xúc mới lạ
Chất trữ tình và trào phúng hoà quyện, đan cài vào nhau làm nên một bài thơ đa nghĩa, đa tầng, là một trong những bài thơ hay nhất viết về người vợ trong VH Việt Nam