Bài ca dao "Thằng Bờm" lâu nay vẫn được giới nghiên cứu văn học và tiếp cận từ góc nhìn quan hệ trao đổi vật thể không ngang giá để đi đến nhận xét về tính gàn dở hay tâm lý thiết thực, thiển cận của Bờm - đại diện cho con người tiểu nông. Chúng tôi cho rằng góc nhìn này là dễ dãi và chưa thỏa đáng vì nó dừng lại ở bên mặt sự vật và hiện tượng, chưa cho phép ta khám phá những đặc trưng văn hóa mang tính bản sắc trong thái độ của Bờm và của Phú ông. Trong bài viết này, chúng tôi thử đề xuất một cách nhìn mới, một cách đánh giá khác về bản chất văn hóa của cuộc thương lượng thú vị này.
I - Cái quạt mo - một siêu giá trị Khi nghe nói đến "Cái quạt mo", ta thường nghĩ ngay đến giá trị sử dụng bé nhỏ của nó, bé đến mức gần như vô giá trị. Vô giá trị vì nó sẵn quanh ta trong môi trường xã hội nông nghiệp, nó là vật phế thải của thiên nhiên mà người nghèo đến đâu cũng có. Vì thế, khi Phú ông đem những vật có giá trị sử dụng lớn như "ba bò chín trâu, ao sâu cá mè, một bè gỗ lim",v.v ra đổi, ta thấy phi lý buồn cười. Ta cười là bởi vì ta chỉ nhìn cái quạt mo của Bờm và trâu, bò, gỗ, cá... của Phú ông như những giá trị sử dụng có thể cân, đo, đong, đếm và sử dụng vào sản xuất hay sinh hoa.t. Nhưng nếu như ta nhìn những thứ này như những đối tượng văn hóa - những kỷ vật, những biểu trưng... thì ta sẽ thấy đồng cảm với Bờm trong sự kiên định giữ lấy cái quạt mo, giữ bằng mọi giá. Thực ra thì cuộc trao đổi có vẻ phi lý và hài hước đã và đang diễn ra trên thị trường văn hóa phương Tây. Chúng ta chẳng bật cười khi thấy người ta đấu giá trả đến mấy triệu đô-la để mua một cái khuy áo hay một kỷ vật của danh hài nào đó? Ta bật cười vì ta còn mang cái nhìn thực dụng tiểu nông, chưa hiểu "siêu giá trị" của cái sản phẩm văn hóa và chưa hiểu "siêu lợi nhuận" của ngành kinh doanh văn hóa. Các nhà tỷ phú chẳng dại gì ném tiền qua cửa sổ. Họ bỏ tiền ra để mua một kỷ vật của bác học Einstein hay Công nương Diana nếu không phải để nâng cấp bộ sưu tập hay bảo tàng của mình thì cũng để nâng cấp văn hóa và quyền lực đầu tư của mình nhằm tới một cái đích vô giá. Phú ông trong bài ca dao "Thằng Bờm" cũng vậy thôi - ông ta tìm mọi cách mua cho được "cái quạt mo" không phải vì ngớ ngẩn, hay tham lam mù quáng như nhiều người đã phân tích, mà vì hắn muốn sở hữu cái quạt mo - biểu tượng của nhân vật Bờm, bản ngã văn hóa của Bờm. Bài ca dao chỉ nói "Thằng Bờm có cái quạt mo" không nói nguồn gốc và tính chất của cái quạt mo này. Nhưng không loại trừ cái quạt mo là một kỷ vật thiêng liêng của cha ông để lại, hay một chiến lợi phẩm từ sự thất bại nhục nhã của Phú ông trong thuở hàn vi mà Phú ông muốn phi tang. Và dù cho cái quạt mo ấy chỉ là một vật dụng bình thường mà Bờm quyết giữ, thì nó cũng mang chứa đặc trưng nhân cách của Bờm, tước đoạt được nó là tước đoạt được một cách tượng trưng ý chí và bản lĩnh kiên định của Bờm, và biết đâu đó lại là cách Phú ông dùng của cải khuất phục được tên nông dân nổi danh cứng đầu cứng cổ, từ đó khuất phục số đông? Nghĩa là, cái quạt mo không còn là cái quạt mo - nó chính là biểu trưng của nhân cách, lịch sử và ý chí. Nỗ lực của Phú ông thực chất là nỗ lực tước đoạt bản ngã văn hóa của những nông dân nghèo khó như Bờm. Nếu là cuộc trao đổi thực dụng thì Phú ông không thể đấu giá với chính mình theo cách kỳ quặc như ta đã thấy. Phú ông tự đặt ra giá cao rồi giảm dần xuống từ "ba bò chín trâu, hạ xuống nắm xôi". Đó không phải là lôgic đấu giá hay mặc cả. Đó là lôgic của tiếp biến văn hóa. Phú ông đổi từ "ba bò chín trâu sang ao sâu cá mè" rồi sang "một bè gỗ lim" không phải là sự hạ giá hay đổi thay giá trị trao đổi, mà chỉ là một cuộc trình diện cụ thể rất khác nhau về ý nghĩa và giá trị trong tương quan văn hóa. Trong tư cách là những vật cụ thể thì những vật trao đổi Phú ông đưa ra là bình đẳng về giá trị trong tiêu chí cảm tính của người Viê.t. Thái độ cụ thể là một thái độ khá đặc trưng của người Việt - cùng là một nắm xôi, một miếng ăn, nhưng đặt trong thời gian và không gian cụ thể nó mang các giá trị khác nhau "miếng khi đói bằng gói khi no, miếng giữa làng bằng sàng giữa chợ, lời chào cao hơn mâm cỗ, miếng ăn là miếng nhục, đánh nhau chia gạo chào nhau ăn cơm,v.v." Với người Việt không có một công thức chung cứng nhắc, giáo điều hay một thứ cẩm nang bảo bối! Nội dung tính chất, giá trị của sự vật được người Việt kiểm chứng trong các quan hệ cụ thể, để "tùy", "lựa", "liệu" rất linh hoạt và linh ứng. Từ tâm thức văn hóa đó đẻ ra cách mặc cả kỳ quái như của Phú ông, đem cái cụ thể này đổi lấy cái cụ thể khác để kiểm chứng nhu cầu cụ thể của Bờm. Nói Phú ông tiếp biến văn hóa là theo nghĩa đó. Song, sự tiếp biến văn hóa của Phú ông không hề là sự hạ cấp giá trị trao đổi. Xét từ góc độ giá trị văn hóa và sự tôn trọng thì cách thỏa thuận của Phú ông là ngày càng đưa Bờm lên một bậc giá trị cao hơn. Nếu như "ba bò chín trâu" là tư liệu sản xuất, thì "ao sâu cá mè" là thực phẩm, "bè gỗ lim" là vật liệu xây dựng, "chim đồi mồi" là thú ăn chơi đài các và "nắm xôi "là đồ thờ cúng, là thức ăn lễ Tết. Rõ ràng là qua cách đổi thay vật trao đổi, Phú ông vừa tiếp thị văn hóa, vừa nâng cấp thân phận của Bờm. Lúc đầu Bờm chỉ được Phú ông coi là kẻ vai u thịt bắp, cày ruộng chăn bò hay là kẻ lái trâu, sau đó Bờm được coi như con người, đã đến lúc lo việc xây dựng cơ ngơi, rồi lại nâng cấp Bờm lên con người biết ăn chơi đài các như ai, và cuối cùng mức cao nhất là nâng Bờm lên một người ăn thức ăn thanh cảnh trong lẽ Tết. Lôgic cư xử của Phú ông là ngày càng tỏ ra coi trọng Bờm, lịch sự với Bờm, đặt Bờm xa dần những tương quan vật chất thô lậu để đưa Bờm vào cương vị quý tộc có chim đồi mồi và biết quý nắm xôi hơn cả trâu bò, nhà cửa. Nghĩa là, bằng sự mặc cả theo lôgic nâng cấp thân phận, nâng cấp giá trị văn hóa đó, Phú ông đã giải phóng Bờm khỏi thân phận nông dân trong các quan hệ kinh tế sản xuất để đưa Bờm vào không gian văn hóa, môi trường giá trị văn hóa. Và nếu như ta đã từng bán nhà, bán cửa, bán trâu bò để giành lấy một thanh danh, một "miếng giữa làng" thì sao Bờm lại không thể đổi quạt mo lấy nắm xôi kia, nhất là khi nắm xôi được đưa ra trong tư cách phủ định trâu bò, nhà cửa? II - Nụ cười của Bờm, một bản lĩnh nước đôi Khả năng giải mã một văn bản là vô tận và mỗi cách tiếp cận, lại có nhiều góc nhìn khác nhau, mỗi góc nhìn khác nhau lại có nhiều công cụ và thao tác khác nhau. Khi giải mã lôgic trao đổi giữa Phú ông và Bờm theo hướng tìm kiếm một lôgic văn hóa như đã trình bày ở phần trên, chúng tôi mong mã số mới này bao quát cả nụ cười của Bờm ở câu cuối của bài ca dao. Nhưng với một sự thận trọng cần thiết, chúng tôi muốn phân tích sâu nụ cười nước đôi, đi vào hai hướng khác nhau giả định hai ý nghĩa khác nhau để đi đến kết luận rằng: nụ cười của Bờm là chấp thuận hay từ chối thì lôgic ngầm đã phân tích ở phần trên vẫn không sụp đổ. 1. Nụ cười chấp thuận. Theo lô gíc thông thường vì được nâng giá văn hóa và được cải thiện thân phận qua những lần Phú ông mặc cả, Bờm cười và chấp thuâ.n. Nụ cười của Bờm đã được hầu hết các nhà phân tích coi là nụ cười chấp thuận, nhưng lại nói bản chất sự chấp thuận này là cái nhìn thiết thực thiển câ.n. Theo hướng giải mã của chúng tôi thì nụ cười này của Bờm lại là nụ cười chiến thắng, nụ cười của kẻ mạnh vì Bờm đã được Phú ông liên tục "xin đổi" một cách năn nỉ và trân trọng, hơn thế nữa ngày càng đưa ra những vật đổi thanh cao. Quá trình thay vật trao đổi cũng là quá trình thanh cao hóa, tượng trưng hóa và song song với nó là quá trình Phú ông từ chỗ huênh hoang, cậy của trở thành kẻ thành tâm. Như vậy là Phú ông lại xoay như chong chóng trước một cái lắc đầu duy nhất của Bờm và cuối cùng phải thay đổi thái độ. Đó là sự chiến thắng của Bờm. Sự chiến thắng này là chiến thắng về văn hóa, vì trong quan hệ quyền lực và quan hệ cạnh tranh kinh tế không thể có chuyện kẻ mạnh về gạo bạo về tiền như Phú ông phải xoay xỏa năn nỉ Bờm như thế. Chỉ có thể hiểu sự bất lực cay cú của Phú ông từ góc nhìn văn hóa. Khát vọng chinh phục, khát vọng đồng hóa là một khát vọng không dễ gì thỏa mãn bằng tiền của và bạo lư.c. Sự kiên định bản ngã văn hóa tạo nên sức mạnh "phú quý bất năng di" của những người nông dân nghèo khổ. Suy rộng ra sự kiên định của Bờm cũng chính là sự kiên định của bản lĩnh văn hóa kiểu Việt 2. Nụ cười từ chối Nụ cười của Bờm nếu hiểu là nụ cười từ chối thì lôgic văn hóa của cuộc trao đổi vẫn không vì thế mà bị sụp đổ, trái lại được khẳng định rõ hơn. Bờm vẫn có thể từ chối một ngôi vị văn hóa càng ngày càng cao mà Phú ông đã đưa tới cho Bờm vì bản lĩnh của Bờm là một tự do bên ngoài những liên kết ấy. Khát vọng của Bờm chỉ là được là chủ nhân của cái quạt mo, khát vọng ấy là một nhu cầu tinh thần mang tính triết học mà ngay cả những giá trị tinh thần cũng không thể trao đổi được dù Bờm có được Phú ông phong Thánh hay dù ai đó có quyền lực đặt Bờm vào ngôi Vua như trong truyện cổ tích thì Bờm vẫn không thể đánh đổi cái quạt mo, lấy những ngôi vị cao quý đó, đơn giản chỉ vì Bờm yêu cái quạt mo gắn bó và thủy chung với nó. Logic của tình yêu là như vâ.y. Người nông dân Việt Nam trong cổ tích và ca dao đã luôn ca ngợi những đức tính thủy chung: Chồng em áo rách em thương, Chồng người áo gấm xông hương mặc người Bài ca dao "Thằng Bờm", cũng có thể là một bài ca dao ngợi ca đức thủy chung tình nghĩa của con người đối với đồ vật của mình. Với đồ vật cũng gắn bó như vậy thì với con người còn gắn bó đến mức nào. Như vậy là chấp thuận hay từ chối, nụ cười của Bờm cũng bộc lộ một phương thức ứng xử tế nhị đầy tính nước đôi của con người Việt Bài ca dao "Thằng Bờm", dù có ý thức hay không đã phát lộ khát vọng văn hóa trong con người Việt Có thể nói, cũng đều là những bài ca dao bộc lộ khát vọng văn hóa của người nông dân Việt Nam, nhưng bài Thằng Bờm là tương phản, đối trọng với bài "Con cò mà đi ăn đêm". Nếu như con cò bị lộn cổ xuống ao phải năn nỉ xin "ông ơi, ông vớt tôi nao và xin được xáo nước trong" để giãi bày tấm lòng trong sạch, thì "Thằng Bờm" đã có thể nở nụ cười hạnh phúc, nụ cười của kẻ mạnh trước tư thế năn nỉ của Phú ông. Sự đảo thế trong hai bài ca dao cũng phát lộ một dải tần rộng của bản lĩnh văn hóa Việt Nam, dù ở thế mạnh hay thế yếu, dù lúc sa cơ hay lúc lên ngôi, người nông dân Việt Nam vẫn kiên định khôn nguôi một khát vọng văn hóa giản dị: sự trong sạch, đức thủy chung vượt lên giầu sang và cái chết. *********************************
"Giải mã" bài ca dao Thằng Bờm
Nguyễn Trọng Bình
Một
bài ca dao chỉ vỏn vẹn 10 câu thơ lục bát, thế nhưng để lĩnh hội nó là
điều không đơn giản chút nào. Có thể nói, cho đến nay, có khá nhiều bài
viết của các nhà nghiên cứu đề xuất những cách hiểu khác nhau về bài ca
dao ngộ nghĩnh và đáng yêu này.
1. Những cách hiểu khác nhau về bài ca dao Thằng Bờm
Tựu trung lại đến thời điểm này, về cơ bản tồn tại 3 nhóm cách hiểu khác nhau về bài ca dao thằng Bờm, có thể tóm tắt như sau:
-
Cách hiểu thứ nhất: Bài ca dao là tiếng cười đả kích, châm biếm nhân
vật thằng Bờm - kẻ “ngu dốt”, “tham ăn, thực dụng”, tít mắt trước “nắm
xôi” của lão Phú ông.
-
Cách hiểu thứ hai: Bài ca dao là tiếng cười đả kích, châm biếm nhân vật
Phú ông và ca ngợi nhân vật thằng Bờm - người “thông minh”. “Dân
gian đã nhọc lòng sáng tạo ra Bờm, cho Bờm nhận một “hòn xôi” để gởi
vào đấy một triết lý thật đơn giản mà cũng thật sâu sắc : tôi chỉ nhận
đúng cái mình có, nếu nhận quá đi sẽ thành bi kịch.” [1]
- Cách hiểu thứ ba: Không chấp nhận hai cách hiểu trên, có người đề xuất cách hiểu bài ca dao thằng Bờm ở góc nhìn “khám phá những đặc trưng văn hóa mang tính bản sắc trong thái độ của Bờm và của Phú ông”.
Tiêu biểu cho cách hiểu này là bài viết của Đỗ Minh Tuấn đăng cách nay
cũng khá lâu trên báo Văn nghệ trẻ. Và theo Đỗ Minh Tuấn thì “Bài
ca dao "Thằng Bờm", dù có ý thức hay không đã phát lộ khát vọng văn hóa
trong con người Việt Nam là khát vọng lớn hơn khát vọng của cải. Quan
hệ văn hóa đã lấn át quan hệ thương mại, dẫn đến cái giá trị hơn vàng
bạc hay tiền của, khát vọng về đổi thay thân phận và đổi thay diện mạo
lớn hơn khát vọng về tài sản. Cái quạt mo ở đây chính là biểu trưng của
bản lĩnh văn hóa, không để mất văn hóa bằng mọi giá.” [2]
Nhìn
lại 3 nhóm cách hiểu trên, có thể nói, tuy ít nhiều cũng đã có những
kiến giải khá hợp lý nhưng nhìn chung cách hiểu nào cũng bộc lộ những
hạn chế nhất định trong phương pháp tiếp cận vì vậy đưa đến các kết luận
cuối cùng còn nhiều vấn đề chưa thỏa đáng. Nếu ở nhóm cách hiểu thứ
nhất và thứ hai, do quá chú trọng đến việc “giải mã” nội dung xã hội
(khá giản đơn và máy móc) của toàn bài ca dao mà cụ thể là xoay quanh
cuộc “mặc cả” giữa Phú ông và thằng Bờm về “cái quạt mo” mà quên đi cái
“không gian văn hóa” – môi trường ra đời và tồn tại của bài ca dao thì ở
cách hiểu thứ 3 lại quá “sai sưa” trong việc “khám phá những đặc trưng văn hóa mang tính bản sắc trong thái độ của Bờm và của Phú ông” mà
quên đi vấn đề đặc trưng của thể loại văn học dân gian. Với các tác
phẩm văn học dân gian nói chung, nếu áp đặt cách tư duy của người hiện
đại và lấy đó “giải mã” cho tư duy của tác giả dân gian thì e là cũng
khó tạo được sự đồng thuận. Cho nên, từ “cái quạt mo” của thằng Bờm mà
nâng lên thành “cái quạt mo - một siêu giá trị” văn hóa (hay“cái quạt mo ở đây chính là biểu trưng của bản lĩnh văn hóa, không để mất văn hóa bằng mọi giá”); và từ tiếng cười của thằng Bờm mà nâng lên thành “Nụ cười Bờm - một bản lĩnh nước đôi” như cách nói của Đỗ Minh Tuấn e là có gì đó hơi gượng gạo và mang nặng tính suy diễn.
Khắc
phục những hạn chế trên, bài viết này sẽ đưa ra cách “giải mã” bài ca
dao trên cơ sở tiếp thu những kiến giải hợp lý từ các quan điểm trước
đó. Bên cạnh đó, là sự tôn trọng văn bản và nội dung của bài ca dao cũng
như tôn trọng những đặc trưng về thi pháp và thể loại của tác phẩm văn
học dân gian nói chung. Và theo chúng tôi thì để có thể
“giải mã” được tinh thần của bài ca dao này, thiết nghĩ việc đầu tiên
cần làm là phải “giải mã” cho được lai lịch của nhân vật Phú Ông và nhân
vật thằng Bờm cũng như phải lý giải cho được vì sao nhân vật Phú Ông
lại quyết tâm đổi cái quạt mo và đặc biệt là “giải mã” ý nghĩa tiếng
cười của thằng Bờm trên cơ sở các đặc điểm về tính biểu trưng trong tác
phẩm văn học dân gian này.
2. “Giải mã” lai lịch nhân vật Phú ông và thằng Bờm
Trước hết, chúng ta cùng đọc lại bài ca dao:
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú Ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu
Phú Ông xin đổi ao sâu cá mè.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè
Phú Ông xin đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim
Phú Ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi
Phú Ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười!
Dựa vào văn bản bài ca dao cũng như trên cơ sở các tác phẩm văn học dân gian khác có nhắc đến nhân vật Phú Ông (Sự tích con Thạch Sùng, Giận mày tao ở với ai, Cây tre trăm đốt…) có thể phác họa lai lịch của nhân vật Phú Ông trong tư duy của tác giả dân gian nói chung và trong bài ca dao Thằng Bờm như sau:
-
Phú Ông: Trong tư duy dân gian đó là những tên nhà giàu thời xưa với
những đặc điểm như: tham lam, keo kiệt, bủn xỉn, ngu dốt và hay khoe
khoang… mà tác giả dân gian có khi còn gọi là những tên “trọc phú”. Tùy
vào hoàn cảnh cụ thế mà tác giả dân gian xây dựng nhân vật Phú Ông thông
qua việc nhấn mạnh đặc điểm này hay đặc điểm kia hoặc có khi là tất cả
các đặc điểm trên.
-
Qua văn bản bài ca dao thằng Bờm, đặc biệt là qua cuộc “mặc cả” giữa
lão Phú Ông với Thằng Bờm có thể thấy nhân vật Phú Ông được tác giả dân
gian nhấn mạnh với tổng hợp các đặc điểm của một tên nhà giàu trọc phú
là: giàu có, ngu dốt, tham lam và đặc biệt là rất hay khoe khoang. Đến đây hẳn có người sẽ thắc mắc, các đặc điểm giàu có, ngu dốt, tham lam là phải rồi nhưng dựa vào đâu để nói là nhân vật Phú Ông này hay khoe khoang? Vấn đề này chúng tôi xin sẽ giải thích ở phần sau. Bây giờ chúng ta tiếp tục đi tìm lai lịch nhân vật thằng Bờm.
Dựa
vào văn bản bài ca dao và tính biểu trưng của văn học dân gian chúng ta
có thể giải mã lai lịch nhân vật thằng Bờm trong bài ca dao này như
sau:
-
“Thằng Bờm” và “cái quạt mo” (tài sản duy nhất của nó) là hình ảnh mang
tính biểu trưng nhằm nói về một hạng người nghèo khó, cùng đinh trong
xã hội cũ mà tác giả dân gian xây dựng trong thế đối lập với hạng người
giàu có là Phú Ông (với rất nhiều tài sản “ba bò chín trâu, ao sâu cá mè, một bè gỗ lim, con chim đồi mồi, nắm xôi…”)
-
“Thằng Bờm” trong bài ca dao là một anh chàng tuy nghèo nhưng rất thông
minh và có gì đó rất lém lĩnh bởi hắn chỉ có duy nhất “cái quạt mo”
nhưng buộc lão Phú Ông phải “xuống nước” “năn nỉ”, “van xin” để đổi lấy
bằng những tài sản quý giá.
Nói tóm lại, thông qua những hình ảnh biểu trưng như: “cái quạt mo” của thằng Bờm; hay những hình ảnh “ba bò chín trâu, ao sâu cá mè, một bè gỗ lim, con chim đồi mồi, nắm xôi…” của
Phú Ông trong bài ca dao này tác giả dân gian trước hết muốn nói đến
lên hai hạng người trong xã hội cũ trong thế đối lập đó là: gã trọc phú
nhà giàu nhưng tham lam, ngu dốt rất hay khoe khoang và anh “dân đen”
cùng đinh nhưng thông minh, lém lĩnh.
3. “Giải mã” vì sao Phú Ông lại “năn nỉ” thằng Bờm?
“Giải mã” vấn đề này chúng ta sẽ tiến thêm một bước rất quan trọng trong việc “giải mã” tinh thần chung của toàn bài ca dao.
Trước
hết, đọc toàn bài ca dao chúng ta thấy lão Phú Ông giàu có với nhiều
tài sản quý giá nhưng rất quyết tâm đi “năn nỉ” thằng Bờm để đổi lấy
“cái quạt mo”. Hắn điên rồi chăng, hay cái quạt mo của thằng Bờm là
“quạt thần”? Chắc chắn đều không phải, không có cơ sở nào để lý giải các
điều ấy.
Thực
ra Phú Ông không điên, “cái quạt mo” của thằng Bờm cũng không phải quạt
thần gì cả. Tất cả chỉ vì cái tính tham lam, ngu dốt và nhất là rất hay khoe khoang của
tên trọc phú mà ra. Nếu nhìn lại nhân vật Phú Ông trong bài ca dao này
chúng ta sẽ thấy có gì đó giống với nhân vật Thạch Sùng – cũng là một
tên Phú Ông sau khi đã qua cái thời “khố rách áo ôm” trong Sự tích con Thạch Sùng với câu châm ngôn quen thuộc“Thạch Sùng thiếu mẻ cá kho”.
Trong sự tích này chúng ta hẳn đều biết Thạch Sùng sau khi giàu có và
trở thành một Phú Ông giàu “nứt đố, đổ vách” hắn đã vênh váo với tất cả
mọi người rằng nhà hắn “không thiếu một thứ gì” thế
nhưng có người mang ra “mẻ cá kho” (hình ảnh biểu trưng cho cuộc sống
của những người cùng đinh, nghèo khó) thì hắn mới vỡ lẽ. Trong cái nhìn
tương tự có thể thấy, rất có thể bài ca dao thằng Bờm chính là những câu
chuyện mà tác giả dân gian trước hết muốn châm biếm đả kích hạng người
giàu có, ngu dốt và rất hay huênh hoang, tự đắc. Lão Phú Ông trong bài
ca dao vì thế, không phải điên khi đem rất nhiều tài sản quý giá ra để
đổi “cái quạt mo” của thằng Bờm mà đây là cuộc “đấu trí” của lão trọc
phú ngu dốt, huênh hoang và kẻ cùng đinh nhưng thông minh, lém lĩnh. Lão
trọc phú đã huênh hoang cho rằng nhà ta “cái gì cũng có” nhưng khi
thằng Bờm trưng ra “cái quạt mo” thì lão mới tá hỏa. Nếu “Thạch Sùng thiếu mẻ cá kho” thì
tên Phú Ông này thiếu cái “cái quạt mo” cũng không có gì là lạ và khó
hiểu. Tuy nhiên, cái độc đáo trong bài ca dao thằng Bờm không phải chỉ
có bao nhiêu đó. Không giống với truyện Thạch Sùng, tác giả dân gian
trong bài ca dao Thằng Bờm còn tiến thêm bước nữa là để cho Lão Phú ông
tìm cách sở hữu cái mà trong nhà hắn còn thiếu. Vấn đề là sở hữu bằng
cách nào? Lẽ thường với vị thế trong xã hội có thể nói, những tên trọc
phú thời xưa không khó để chiếm đoạt “cái quạt mo” của những hạng người
cùng đinh, “thấp cổ bé miệng”. Tuy nhiên, với tư duy dân gian, và có lẽ cùng
với cái khát vọng, cái ước mơ muốn sang bằng những nỗi bất công trong
xã hội, tác giả dân gian đã rất thông minh dựng lên “kịch bản” Phú Ông
phải đi “năn nỉ” thằng Bờm để có “cái quạt mo”. Đây là một bằng
chứng cho chúng ta thấy sự phong phú trong trí tưởng tượng và nét đẹp
của trí tuệ - tư duy dân gian ngàn đời của cha ông. Những tên trọc phú
nhà giàu rồi sẽ có lúc nào đó cũng phải “xuống nước” năn nỉ kẻ cùng
đinh. Có thể nói, với cách tư duy độc đáo này, tác giả dân gian đã để
lại cho chúng ta một bài ca dao mang tính biểu trưng có ý nghĩa vô cùng
sâu sắc và độc đáo.
Cho nên, chỉ có cách giải thích lão Phú ông trong bài ca dao Thằng Bờm là một tên trọc phú vừa ngu dốt vừa tham lam và đặc biệt là rất hay khoe khoang nên
đã thua trí thằng Bờm là phù hợp với cái logic lão quyết tâm đem nhiều
tài sản có giá trị ra để năn nỉ thằng Bờm đổi lấy “cái quạt mo” không có
giá trị.
4. “Giải mã” cái cười của thằng Bờm.
Ngẫm
lại bài ca dao, chúng ta thấy, nhờ nắm được “cái tẩy” tham lam, ngu dốt
và nhất là hay khoe khoang, vênh váo của lão Phú Ông khi bảo rằng “nhà
ta không thiếu thứ gì” nên thằng Bờm với trí thông minh và sự lém lĩnh
đã dạy cho lão một bài học. Một “cái quạt mo” không có giá trị nhưng lại
là vật còn thiếu trong nhà của tên Phú Ông. Thằng Bờm đã “cược” với lão
như thế và lão đã thua. Nhưng với bản tính tham lam, ngu dốt, lão Phú
Ông không ngần ngại vung tiền ra để sở hữu cho bằng được “cái quạt mo”
(vì nếu đổi được sau này hắn sẽ càng có cơ hội huênh hoang hơn là giờ
đây nhà ta chắc chắn sẽ không thiếu một thứ gì). Tuy nhiên, kết quả như
thế nào thì mọi người đã rõ. Tên trọc phú trong cuộc “mặc cả” cuối cùng
chỉ nhận duy nhất một “cái cười” của Thằng Bờm (kẻ cùng đinh lém lĩnh).
Đến đây cho chúng ta thấy tư duy dân gian quả là rất “ghê gớm”. Một cái
cười thật là thâm sâu, có một không hai!
Để
“giải mã” cho cái cười của thằng Bờm trong bài ca dao này có một chi
tiết vô cùng quan trọng mà chúng ta không thể bỏ qua đó là: trong quá
trình “mặc cả” giữa lão Phú Ông và thằng Bờm, sau mỗi lần thằng Bờm “lắc
đầu” không chịu đổi “cái quạt mo” cho lão thì giá trị của vật mà lão
đem ra đổi lại hạ thấp dần. Theo logic thông thường điều này không phù
hợp chút nào. Đầu tiên anh mang“ba bò chín trâu” ra đổi người ta không chấp nhận vậy anh phải nâng lên thành “mười bò, hai mươi trâu” mới hợp lẽ, đằng này anh lại hạ thấp xuống còn chỉ một “nắm xôi”. Giải
thích vấn đề này như thế nào đây? Lâu nay các nhà nghiên cứu thường
“lơ” vấn đề này khi đi vào phân tích bài ca dao này. Hoặc không thì có
nhiều người để lý giải cho sự “thông minh” và tính “không tham lam” của
thằng Bờm lại cho rằng thằng Bờm không bị mắc lừa lão Phú Ông, nó chỉ
lấy “nắm xôi” là vật ngang giá với “cái quạt mo”. Hơn nữa lấy “nắm xôi”
thì có thể bỏ vào mồm ngay lão Phú Ông nếu có đòi lại cũng không được.
Từ đó khái quát lên trong cuộc sống không nên quá tham lam, “chỉ nên
nhận những gì mình xứng đáng được nhận”… Thực ra, những cách hiểu này là
máy móc, hiểu như thế sẽ không thấy hết thâm ý của tác giả dân gian về
cái cười của thằng Bờm ở câu thơ cuối. Vậy thì phải hiểu chi tiết này
như thế nào đây? Như đã phân tích ở trên, lẽ thường khi anh đưa ra điều
kiện đổi, người ta không chấp nhận thì anh phải tăng giá trị vật anh lấy
ra đổi mới hợp logic. Cho nên, trong trường hợp này chúng ta phải hiểu
là sau khi lão Phú Ông mang “ba bò chín trâu” ra đổi “cái quạt mo” nhưng thằng Bờm không chịu đổi, tiếp theo lão lại bảo “thế thì tao cộng thêm cho mày “một ao sâu cá mè” nữa nhé” nhưng
thằng Bờm vẫn không chịu đổi. Và cứ như thế lão Phú Ông lại cộng thêm,
cộng thêm mãi cho đến cái tài sản có giá trị nhỏ nhất trong nhà lão là
“nắm xôi” nhưng rồi cuối cùng thằng Bờm chỉ trả lời lão bằng duy nhất
một nụ cười mà thôi. Phải hiểu như thế này chúng ta mới có thể “giải mã”
cho cái cười của Thằng Bờm và đồng thời cũng là “giải mã” cho cái cười
thể hiện vẻ đẹp của trí tuệ và tư duy dân gian của người xưa: dù thằng
Bờm cười - đồng ý hay cười - không đồng ý đổi “cái quạt mo” thì trong
cuộc đấu trí giữa tên “trọc phú” và anh “dân đen” cuối cùng tên trọc phú
cũng thua một cách thật thảm hại và nhục nhã. Bởi vì:
Thứ
nhất: Đường đường là một Phú Ông vốn luôn tự đắc “nhà ta không thiếu
thứ gì” nhưng hóa ra lại không có “cái quạt mo” như nhà thằng Bờm.
Thứ hai: Đường đường là một Phú Ông nổi tiếng giàu có nhưng phải hạ mình đi “năn nỉ” một thằng dân đen nghèo mạt rệp.
Thứ
ba: tất cả tài sản của lão Phú Ông suy cho cùng cũng chỉ ngang bằng
“cái quạt mo” của thằng dân đen (trường hợp thằng Bờm cười và đồng ý
đổi) hay tệ hại hơn là không bằng một “cái quạt mo” của thằng dân đen
(trường hợp thằng Bờm cười nhưng không đồng ý đổi). Điều này quả là quá
nhục nhã.
5. Kết luận chung hay là việc “giải mã” những tầng bậc ý nghĩa của bài ca dao Thằng Bờm
Trên
cơ sở những phân tích nhằm “giải mã” lai lịch lão Phú Ông, “giải mã”
lai lịch thằng Bờm; “giải mã” vì sao Phú Ông lại đem những tài sản có
giá trị của mình để đổi lấy “cái quạt mo”; “giải mã” tiếng cười của
thằng Bờm… có thể rút ra những kết luận “giải mã” toàn bài ca dao thằng
Bờm (tùy vào mỗi góc nhìn) với những cấp độ ý nghĩa như sau:
5.1 Bài ca dao Thằng Bờm là tiếng cười châm biếm, đả kích những hạng người giàu có nhưng tham lam, ngu dốt và đặc biệt là rất hay khoe khoang, vênh váo, tự đắc, mình là số một trong thiên hạ – một dạng “trọc phú” hay “trưởng giả học làm sang” trong xã hội mà Đông Tây, kim, cổ đều có.
5.2 Trong cái nhìn của người xưa, bài ca dao Thằng Bờm ở
góc độ nào đó phản ánh sự bất công trong xã hội (Phú Ông – đại diện cho
bọn “trọc phú” giàu có lắm bạc nhiều tiền sẵn sàng vung ra mua lấy cái
danh hão nhằm thỏa mãn cho những thú vui ích kỷ của bản thân trong khi
đó Thằng Bờm – đại diện cho những con người nghèo khó cơ cực không có
một tài sản gì quý giá). Tiếng cười của thằng Bờm ở cuối bài ca dao là
tiếng cười để tác giả dân gian qua đó bộc lộ những khát vọng, những ước
mơ chính đáng về một cuộc sống, một xã hội công bằng, dân chủ.
5.3
Qua cuộc mặc cả giữa Phú Ông và thằng Bờm, bài ca dao thể hiện một
triết lý nhân sinh có ý nghĩa muôn thuở của người xưa đó là: trong cuộc
sống không phải anh có tiền, có của là anh muốn gì cũng được, mua gì
cũng được, đổi gì cũng được, làm gì cũng được...
5.4 Nhìn ở góc độ văn hóa, bài ca dao Thằng Bờm một
lần nữa khẳng định chiều sâu của vẻ đẹp trí tuệ và tư duy dân gian sâu
sắc và độc đáo của người xưa: những kẻ mà trong cuộc sống tuy giàu về
tiền bạc, của cải nhưng chưa chắc đã “giàu” về trí tuệ, ngược lại những
người nghèo khó về tiền bạc nhưng có khi họ rất “giàu” về trí tuệ. Hay
nói cách khác đó là cách nói “nhân vô thập toàn” của người xưa.
Cần Thơ, 13/2/2011
Nguyễn Trọng Bình
--------------------------------
Ghi chú: Bài đã đăng trên tạp chí Kiến thức ngày nay
[1] Thằng Bờm có cái quạt mo – Bài của Lê Tiến Dũng in trên lần đầu trên Kiến thức ngày nay năm
1997 được chúng tôi trích dẫn lại từ trang web
khoavanhoc-ngonngu.edu.vn của Khoa văn học và ngôn ngữ, trường Đại học
KHXH& Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.
[2] Một cách hiểu về bài ca dao thằng Bờm – Bài của Đỗ Minh Tuấn in lần đầu trên Văn nghệ trẻ được chúng tôi trích dẫn lại từ trang web www.suutap.com.
|