Thứ Hai, 10 tháng 9, 2012
BÀN THÊM VỀ SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DU TRONG TRUYỆN KIỀU QUA ĐOẠN TRÍCH TRAO DUYÊN
Mối liên hệ giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân phản ánh qui luật phát triển chung của các nền văn học trung đại trên thế giới. Điều đặc biệt là, từ nguồn chất liệu vay mượn của một tác phẩm “không lấy gì làm xuất sắc”(B.L.Riptin), thiên tài Nguyễn Du đã tạo nen một kiệt tác. Ở đây, chúng tôi muốn bàn thêm về vấn đề này qua Trao duyên - một trong những trích đoạn tiêu biểu nhất cho thành tựu tư tưởng và nghệ thuật của Truyện Kiều.
Trong Truyện Kiều, sự kiện Thuý Kiều trao duyên cho Thuý Vân được Nguyễn Du miêu tả trong một tình huống mới, khác hẳn so với Kim Vân Kiều truyện. Thanh Tâm Tài Nhân để cho việc trao duyên diễn ra ngay sau quyết định bán mình, đan xen cùng nhiều sự kiện khác và kéo dài trong suốt ba hồi (trên tổng số 20 hồi). Khi đó, Vương ông và Vương Quan vẫn bị bọn công sai đưa đi; Vương bà phải theo chúng để biết lối mang cơm nước. Còn lại hai chị em, Thuý Kiều lập tức bày tỏ nỗi lòng với Thuý Vân; mời em ngồi lên lạy tạ “nhờ em đền bồi thay chị” và gắng vượt qua nỗi đau khổ để viết thư từ biệt Kim Trọng. Bởi vì nàng liệu trước được cảnh ngộ của mình: “Mẹ trở về, mụ mối tất cũng đến. Việc này liên quan đến chuyện trộm cướp, chắc rằng trong vùng không ai dám lấy chị, nhất định phải là người xa. Họ cưới rồi tất giục đi ngay. Lúc bấy giờ ruột gan rối bời, dù muốn viết để lại nửa chữ cũng không thể viết”(tr 52). Dẫu nhiều lúc khóc gọi Kim Trọng; mấy lần đau đớn đến ngất đi nhưng khi tỉnh lại Thuý Kiều vẫn bình tĩnh, chủ động, can trường như một đấng nam nhi. Mụ mối đưa Mã Giám Sinh tới, nàng tự đứng ra mặc cả bán mình, thu xếp các thủ tục mua bán, tự viết hôn thư. Nàng nhận bạc còn đem cân lại, thấy thiếu năm lạng, bắt họ Mã phải “bù thêm cho đủ số”... Quan sát những hành động đó, người đọc tất nhiên thán phục trước “cái tài nhìn đời sáng suốt, làm việc quyết đoán” song không khỏi cảm thấy sự khiên cưỡng của tác giả trong cách miêu tả hành động, tâm lí nhân vật. Nó không thực sự phù hợp với một cô gái trẻ sinh ra, lớn lên trong khung cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che” lần đầu tiên phải đối mặt với những biến cố dữ dội, kinh hoàng. Hơn nữa, ngay trong lúc mọi việc còn ngổn ngang, rối bời, còn phải lo lắng cho số phận của cha và em như thế, thật khó có thể nghĩ và tính toán chu toàn cho mình, cho người yêu...
Khác với Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du không chủ tâm tạo dựng hình tượng Thuý Kiều như một “tay hào kiệt trong bạn quần thoa”(tr 45). Người thiếu nữ được nuôi dưỡng trong cảnh phong lưu ấy khi phải đối mặt với tai họa cũng rất cứng cỏi, giàu nghị lực. Nhưng lời lẽ, cách ứng xử... vẫn toát lên vẻ dịu hiền, đằm thắm; có cả nét thơ ngây, trong sáng của một cô gái mười lăm, mười sáu tuổi. Kể từ giây phút quyết tình “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”, Thuý Kiều không một lần nghĩ đến Kim Trọng, như thể chỉ cần một kỉ niệm tình yêu thức dậy là sẽ lấy đi của nàng tất cả sức lực và lòng can đảm. Phải đến khi “Việc nhà đã tạm thong dong”, cha và em đã thoát khỏi gông cùm và sáng hôm sau Mã Giám Sinh sẽ đến lấy người - nàng mới dám sống với nỗi đau khổ của mình. Nguyễn Du đã dành riêng cho nỗi đau này một đêm khuya thanh vắng “Một mình nàng ngọn đèn khuya/ Áo đầm giọt lệ tóc se mái sầu”. Đối diện với lòng mình, Thuý Kiều chấp nhận số phận éo le, bất hạnh nhưng không nguôi được nỗi day dứt, đau đớn vì phải phụ lời thề ước sâu nặng, thiêng liêng; phải để lại cho người yêu nỗi đau dang dở: Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa; Vì ta khăng khít cho người dở dang; Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà tự tôi... Không thể tròn vẹn chữ tình, nàng chỉ còn biết đắm chìm trong đau khổ: “Nỗi riêng riêng những bàn hoàn/ Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”. Đúng lúc ấy, Thuý Vân cất lên lời hỏi han, chia sẻ ân cần và chuyện trao duyên đến bất ngờ, thuận theo diễn biến tự nhiên của tâm trạng nhân vật chứ không phải là chủ ý được tính trước.
Như vậy, sáng tạo của Nguyễn Du không đơn giản chỉ là lược bỏ nhiều chi tiết, sắp xếp, tổ chức lại các sự kiện, xây dựng tình huống mới... mà chủ yếu là biến đổi tính cách nhân vật và sử dụng những phương thức biểu đạt của riêng mình. Ngòi bút của cụ Nguyễn Tiên Điền đã “khai sinh” một Thuý Kiều mới với “chất Việt Nam thuần tuý và nồng hậu”(M.Durant). Cô Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân thiên về lí trí và luôn có ý thức nêu cao tấm gương liệt nữ nên hay thuyết giáo về chuyện đạo lí. (Cô thuyết phục cha: “Con nay gặp cảnh nước vỗ đầu ghềnh này, cần đứng chân cho vững để làm một việc bất hủ, lưu lại cho đời sau truyền tụng, tuy là không may mà thực là rất may.... làm cho con được cái danh thơm hiếu nữ, há chẳng phải việc rất hay rất đẹp đó ư?”(tr67)). Lúc trao duyên cho Thuý Vân cũng vậy, Thuý Kiều khẳng định mình đã dũng cảm nhận lấy sự hi sinh lớn nhất: “Em là người lương thần hiếu thờ cha mẹ, chị là người trung thần sát thân thành nhâni”(tr50)... Vì thế, lời nàng dặn dò em có chút trịch thượng của người ban ơn: “Chị sợ người tài tình như chàng Kim, khó lòng mà gặp, chị cùng chàng thề thốt bao nhiêu, tất cả phải nhờ em giữ cho trọn vẹn. Sau này chồng quí vợ vinh, đừng có quên chị!”(tt 51). Cách nói đó chỉ phù hợp với một Thuý Vân từng có ý định cùng chị chung mối duyên tình. (Ngay sau cuộc gặp gỡ bên mộ Đạm Tiên, cô Vân của Thanh Tâm Tài Nhân đã “xui giục” chị: “Chị đã coi chàng vừa ý, sao không gá nghĩa cùng chàng rồi dắt díu em đây cũng được phong quang đôi chút”(tr 18). Có thể chính cô Vân ấy mới khiến người đời sau hạ bút viết những câu thơ này chăng: “Chắp duyên nếu là người hôm nọ/ Chẳng lạy thì em cũng nhận lời!”?).
Trong khi đó, nàng Kiều của Nguyễn Du lại nặng về tình cảm, nghĩ nhiều đến bổn phận tự nhiên với những người ruột thịt: “Thà rằng liều một thân con/ Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây”. Nàng không coi việc bán mình là hành động phi thường của liệt nữ, hiếu nữ mà là lẽ thường của người làm con, làm chị. (Tinh thần vị tha cao cả mà giản dị, thầm lặng đó toát lên từ nhiều hình tượng nhân vật nữ của văn học Việt Nam – từ cổ tích, ca dao, truyện Nôm... đến các tác phẩm hiện đại.) Cho nên, lời Thuý Kiều nhờ cậy, dặn dò lúc trao duyên chứa đựng không chỉ tình nghĩa với Kim Trọng mà cả tấm lòng yêu thương, trân trọng và biết ơn dành cho Thuý Vân “Ngày xuân em hãy còn dài/ Xót tình máu mủ thay lời nước non”. Nàng nghĩ em còn trẻ, còn nhiều cơ hội để có được tình yêu, hạnh phúc của riêng mình. Hơn nữa với Thuý Vân lúc đó, chàng Kim dẫu có hào hoa phong nhã nhưng mới chỉ là một “người dưng”! Nàng thấu hiểu rằng, em gái cũng phải thiệt thòi, cũng có công ơn to lớn khi “chịu lời” ủy thác này. Để Thuý Kiều nói những lời như thế trong cảnh trao duyên, Nguyễn Du còn “phục bút” cho bi kịch Thúy Vân và cảnh đoàn viên nhiều ngậm ngùi của mười lăm năm sau...
Đoạn trích Trao duyên cũng là bằng chứng tiêu biểu cho giá trị riêng của phương thức tái hiện đời sống mà Nguyễn Du lựa chọn. Nếu Thanh Tâm Tài Nhân tận dụng được thế mạnh của tự sự và ngôn ngữ văn xuôi thì Nguyễn Du lại đặc biệt thành công trong nghệ thuật trữ tình. Tác giả Kim Vân Kiều truyện đan cài sự kiện trao duyên giữa rất nhiều sự kiện khác, khéo léo cuốn người đọc vào cái hiện thực đời thường ngồn ngộn chất sống, làm nổi bật lên một Thuý Kiều với bản lĩnh khác xa người thường. Song ở đây, tính cách Thuý Kiều chủ yếu vẫn được bộc lộ qua lời nói, cử chỉ, hành động - kiểu nhân vật ngoại hiện quen thuộc của tiểu thuyết chương hồi. Nguyễn Du lại tách riêng cuộc trao duyên, tập trung miêu tả diễn biến nội tâm của Thuý Kiều, mang đến cho người đọc cái thế giới phong phú, phức tạp, bí ẩn không cùng của trái tim tình yêu. Ngôn ngữ nhân vật với các hình thức đối thoại, độc thoại... được tác giả sử dụng như một phương tiện đắc lực để khám phá, khắc hoạ “con người bên trong”. Lời Thuý Kiều nhờ cậy em vừa trang trọng (cậy, chịu lời, lạy, thưa) vừa gần gũi (chắp mối tơ thừa, mặc em) nói lên được cả tính chất hệ trọng của việc trao duyên, cả sự trông chờ, tin cậy của tình ruột thịt. Lời kể ngắn gọn mà vẫn đủ để Thuý Vân hiểu mối tình sâu nặng (khi gặp, khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề); lời thuyết phục thấm đượm ân tình khiến Thuý Vân không thể và không nỡ chối từ (xin em hãy vì xót tình máu mủ mà thay lời nước non chứ không phải vì chàng Kim là người tài tình khó lòng mà gặp)... Lời lẽ tinh tế, giọng điệu điềm tĩnh tưởng chừng Thuý Kiều đã vượt qua được nỗi đau nhưng đến lúc trao kỉ vật, thì tâm trạng nhân vật lập tức thay đổi. Lời dặn dò em bây giờ đầy những mâu thuẫn, xót xa, tiếc nuối. Đã thiết tha cầu khẩn Thuý Vân chắp mối tơ thừa nhưng lại nói về sự gắn bó giữa em và chàng Kim như một giả thiết bất đắc dĩ: Dù em nên vợ nên chồng; Mai sau dù có bao giờ... Vừa mới khẳng định rằng, chỉ cần trọn nghĩa cùng Kim Trọng thì dẫu phải chết cũng ngậm cười nơi chín suối đã lại hình dung trong tương lai bi thảm mình sẽ hiện về như một hồn ma oan trái: “Hồn còn mang nặng lời thề/ Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”. Kiều vẫn đang trò chuyện cùng Vân mà luôn nói như mình đã thuộc về cõi khác: mất người, người mệnh bạc, người thác oan... Để rồi cuối cùng, nàng lại phải trở về với những day dứt, đau khổ lúc ban đầu “Ôi Kim lang hỡi Kim lang/ Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”... Chỉ trong một đoạn thơ ngắn, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh tâm trạng với rất nhiều cung bậc, trạng thái cảm xúc, nhiều biến động tinh tế. Phan Ngọc đã không hề nói quá khi ông gọi Truyện Kiều là “quyển sách của một ngàn tâm trạng”.
Nguyễn Du không chỉ khám phá, tái hiện một quá trình diễn biến tâm lí phong phú, phức tạp mà còn lí giải sự vận động của quá trình ấy bằng “phép biện chứng tâm hồn”. Mở đầu cảnh trao duyên, Thuý Kiều nói năng bình tĩnh, sáng suốt vì nàng ngỡ đã tìm được cách chu toàn khi cậy nhờ em hoàn thành lời nguyện ước. Vậy mà chỉ cần nhìn thấy những kỉ vật, là tiếng nói của trái tim đã lấn át lí trí. Kỉ vật gọi về kỉ niệm, kỉ niệm đánh thức tình yêu, tình yêu trào dâng mãnh liệt cuốn đi tất cả những ảo tưởng về chuyện chắp mối tơ thừa, thay lời nước non, ngậm cười chín suối! Nó buộc nàng phải trở về với thực tại chia lìa, đổ vỡ không thể hàn gắn, không gì bù đắp nổi: đứt gánh tương tư, trâm gãy bình tan, tơ duyên ngắn ngủi, thiếp đã phụ chàng... Nàng có thể trao hết cho em chiếc thoa, tờ mây, phím đàn, mảnh hương nhưng làm sao dứt khỏi lòng mình một tình yêu nồng thắm, sâu sắc tự buổi đầu gặp gỡ? Cuộc trao duyên kết thúc trong đỉnh điểm của nỗi đau: “Cạn lời hồn ngất máu say/ Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng”. Thuý Kiều bất lực trước trái tim yêu thương tha thiết mãnh liệt của chính mình! Và khối tình vẫn còn nguyên vẹn ấy, nàng sẽ phải mang theo trên suốt hành trình đằng đẵng của mười lăm năm đoạn trường: Thấy trăng mà thẹn những lời non sông; Tấm son gột rửa bao giờ cho phai; Nhớ lời nguyện ước ba sinh; Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng...
Bàn về sáng tạo của Nguyễn Du, không thể không nói đến nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Tôi vẫn nghĩ đây là bình diện so sánh quan trọng nhất. Nó sẽ mang đến câu trả lời thích đáng cho câu hỏi vì sao một tác phẩm có nguồn gốc “ngoại lai” lại chiếm giữ vị trí đặc biệt như thế trong đời sống văn học, văn hoá của nhân dân Việt Nam. Truyện Kiều đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nhưng có lẽ không thể có một bản dịch nào chuyển tải hết được cái linh diệu của thứ ngôn ngữ mà Nguyễn Du dùng để tạo nên công trình tuyệt mĩ này. Phải đọc Truyện Kiều bằng Tiếng Việt; phải đặt từng từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu... của mấy ngàn câu thơ lục bát uyển chuyển kia trong bầu khí quyển của văn hoá và tâm hồn Việt, mới cảm nhận hết được sáng tạo thiên tài của Nguyễn Du... Chỉ cần lướt qua vài yếu tố ngôn ngữ trong đoạn trích Trao duyên, cũng đã thấy được phần nào thành tựu nghệ thuật vĩ đại đó.
Đọc Kim Vân Kiều truyện, có thể dễ dàng nhận thấy thế mạnh của Thanh Tâm Tài Nhân trong việc tạo dựng cốt truyện hấp dẫn với hệ thống chi tiết phong phú, có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn. Có lẽ đây cũng là lí do khiến Nguyễn Du mượn tác phẩm này làm cái bình để rót vào đó những suy ngẫm, trăn trở, khát khao, ước vọng... của riêng mình. Khi thực hiện mục đích đó, Nguyễn Du đã tìm đến một thế mạnh khác – sức mạnh của ngôn ngữ thơ, sự giàu có của tiếng mẹ đẻ. Ông lược bỏ cái thô nhám của ngôn ngữ văn xuôi, dùng khả năng biểu đạt, tính biểu cảm cao độ của từ ngữ thay cho nhiều chi tiết. Chẳng hạn, Thuý Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân lúc bắt đầu trao duyên đã vừa khóc vừa nói (có Thuý Vân trước mặt): “Chàng Kim! Chàng Kim! Trước đây thiếp cố giữ vẹn tấm thân, không chiều ý chàng là sợ trong đêm hợp cẩn, không lấy gì làm tin. Nếu sớm biết có biến ngày nay như thế này thì lúc ấy còn giữ làm chi”(tr 52). Thật khó hình dung một thiếu nữ được nuôi dạy trong nền nếp nho gia lại dễ dàng nói thẳng một vấn đề như thế trước mặt người khác, dù đó là em ruột. Mặt khác, có thật hợp lí không khi để cho những suy nghĩ ấy xuất hiện ngay khi Kiều chưa bán mình xong, chưa phải gánh chịu cái cảnh “Một cơn mưa gió nặng nề/ Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương”? Nguyễn Du đã đưa câu nói kia khỏi cảnh trao duyên và chuyển thành ý nghĩ của Thuý Kiều trong tâm trạng nhục nhã, ê chề, phẫn uất sau khi thất thân với Mã Giám Sinh và diễn đạt bằng những từ ngữ hàm súc, tế nhị: “Biết thân đến bước lạc loài/ Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”... Hoặc chi tiết Thuý Kiều trao cho em kỉ vật được tác giả Kim Vân Kiều truyện miêu tả hai lần, lối tả vẫn nặng về kể việc. Lần đầu Thuý Kiều nói với Thuý Vân: Chị với chàng Kim có một tờ minh ước, một đôi vòng bạc, xin đưa cả cho em, mong em khéo giữ gìn, để làm mối ăn ở về sau”(tr 51). Lần thứ hai, nàng viết trong thư gửi lại cho Kim Trọng: “Một cây hồ cầm, một tập oán khúc và một gói hương trầm để lại. Sau này có lúc chàng cùng em thiếp, vợ chồng đốt hương ngâm vịnh, ca khúc dạo đàn, nếu thấy gió lạnh hiu hiu, khói hương quanh quất thì ấy là hồn thiếp ở đấy.”(tr83). Nguyễn Du gộp cả thành lời Thuý Kiều nhắn nhủ em và sáng tạo kiểu ngôn ngữ đối thoại có khả năng biểu hiện diễn biến tâm trạng: “Chiếc thoa với bức tờ mây/ Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Hai tiếng của chung hàm ẩn bao nhiêu xót xa, tiếc nuối. Duyên trao cho em rồi mà như vẫn muốn “xí phần” cho mình. Từ ngữ và cấu trúc đối của câu thơ (duyên – thì giữ, vật – của chung) gợi liên tưởng đến bàn tay ngập ngừng, lưu luyến, không nỡ xa rời những kỉ vật tình yêu. Tâm trạng ấy càng đậm nét hơn khi Thuý Kiều trao nốt cho Vân kỉ vật của đêm thề nguyền: “Mai sau dù có bao giờ/ Đốt lò hương ấy, so tơ phím này”. Câu thơ sáu tiếng được ngắt thành ba nhịp ngắn và không trọn nghĩa khiến ta có cảm giác như nghe thấy tiếng nghẹn ngào, nức nở của một người muốn nói mà không thốt nổi thành lời. Những từ ngữ bình thường, thậm chí tầm thường như ấy, này bỗng hoá thành phi thường trong câu thơ của Nguyễn Du. Không có chúng, phím đàn, mảnh hương chỉ là đồ vật, có thể thay thế, có thể mua được. Có chúng, đồ vật biến thành kỉ vật thiêng liêng, duy nhất, vô giá... Những từ Hán Việt, những ước lệ, ẩn dụ cổ điển (tương tư, keo loan, quạt ước, chén thề, bồ liễu, trúc mai, dạ đài, trâm gãy bình tan...) song hành một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn cùng lời ăn tiếng nói bình dị, dân dã (giữa đường đứt gánh, chắp mối tơ thừa, mặc em, xót tình máu mủ, vật này của chung, có ngần ấy thôi, bạc như vôi...)... Vì thế, chẳng cần nhiều chi tiết, nhiều lời, tác giả Truyện Kiều vẫn tái hiện được những biến động tinh tế, vô hình của nội tâm; mức độ sâu sắc, mãnh liệt của tình yêu và nỗi đau...
Tìm hiểu sơ qua một đoạn trích Trao duyên, đã có thể hiểu vì sao Truyện Kiều của Nguyễn Du có sức rung động mãnh liệt đối với mọi tầng lớp, mọi thế hệ người Việt trong gần ba thế kỉ qua. Và nói theo cách của Hoài Thanh, thì một tác phẩm có khả năng đi sâu vào tâm hồn của một nòi giống cũng sẽ có sức mạnh thấm sâu vào tâm hồn nhân loại.
Nguyễn Thị Nương
Khoa Ngữ Văn ĐHSP Hà Nội.
---------------------------------
Tài liệu tham khảo:
1. Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm tài Nhân, Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Khắc Hanh dịch; Nguyễn Đăng Na hiệu đính và giới thiệu, Nxb ĐHSP, 2008.
2. Truyện Kiều, Nguyễn Du, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải, Nxb Hà Nội, 1999.
3. 200 năm nghiên cứu, bàn luận Truyện Kiều, Lê Xuân Lít sưu tầm, tuyển chọn, Nxb GD, 2007.