Những bí quyết ôn thi
môn Văn hiệu quả (st)
1. Chọn thầy học,
chọn sách đọc
Chỉ những người có năng
lực đặc biệt xuất sắc mới có khả năng tự học và đạt hiệu quả như mong muốn. Hầu
hết thí sinh dự thi đại học và cao đẳng không có được năng lực ấy.
Vì vậy, các em cần sự
hướng dẫn của những cuốn sách tốt, những thầy cô giỏi, có trách nhiệm và giàu
kinh nghiệm. Hiện nay, tài liệu tham khảo và luyện thi tràn ngập thị trường. Để
mua được sách tốt, các em nên nhờ thầy cô có uy tín giới thiệu.
Khi đọc tài liệu tham
khảo, các em nên ghi chép, suy nghĩ, tán thành, hoặc phản đối, bởi không phải
mọi kiến thức trong sách vở đều đúng. Những thắc mắc, nghi ngờ, nên ghi lại để
hỏi cho rõ.
Tất nhiên, việc đọc tài
liệu tham khảo là cần thiết, nhưng không thể thay thế được việc nghe giảng trên
lớp. Nếu được thầy cô giỏi, tâm huyết giảng dạy và hướng dẫn, các em sẽ thấy
văn học hấp dẫn và thú vị hơn, hiểu vấn đề sâu sắc hơn…
Nếu học ở các trung tâm
luyện thi, các em nên tìm học những người có khả năng trang bị một hệ
thống phương pháp, kĩ năng, chứ không nên quá thiên về chi tiết bài giảng.
2. Tham khảo đề thi,
đáp án, biểu điểm
Các em nên tham khảo đề
thi, đáp án, biểu điểm chính thức và dự bị những năm trước của Bộ GD&ĐT. Nó
sẽ giúp học sinh có một định hướng rõ ràng hơn trong việc ôn tập và làm bài
thi.
Khi đọc những tài liệu
này, cần lưu ý đến điểm số dành cho từng ý; tại sao ý này điểm nhiều, ý kia
điểm ít; cũng như trình tự sắp xếp các ý, phạm vi dẫn chứng…
Các em cũng nên học hỏi
cách làm bài, kiến thức, cách mở bài, kết bài, triển khai ý, cách chuyển ý,
trình bày, diễn đạt… qua những bài văn đạt điểm cao trong các kì thi đại học
trước đó, đồng thời so sánh các bài viết này với đáp án và biểu điểm của
Bộ, xem bài làm thiếu ý nào, có ý nào mới hơn, tại sao lại được điểm cao như thế…
Các em có thể tìm thấy
các tài liệu này tại địa chỉ sau: http://ts.edu.net.vn của
Bộ GD&ĐT.
3. Không học tủ,
nhưng cần có trọng tâm
Có thí sinh cho rằng
năm trước, đề thi đã ra vào bài này, phần này, nên năm sau sẽ không rơi vào bài
đó nữa. Nhận thức như vậy là chủ quan, vừa sai lầm, vừa thiển cận.
Nhiều em ngại khó, nên
thường bỏ qua các bài khó hoặc ít hấp dẫn như Người lái đò sông Đà, Các vị La
Hán chùa Tây phương…Nhưng đề thi vẫn có thể rơi vào các bài đó, mà khi đề đã
ra, thì dù không thích cũng phải làm.
Đề thi môn Văn thường
kiểm tra toàn diện kiến thức văn học sử (về giai đoạn văn học 1945 - 1975 và 5
tác giả), cũng như tác phẩm văn học cả trước và sau Cách mạng, cả thơ và văn,
thậm chí cả kịch (như chương trình phân ban), đồng thời kiểm tra toàn diện các
kĩ năng tóm tắt, bình giảng, phân tích, so sánh, giải thích, chứng minh...
Trước đây, dung lượng
kiến thức văn học lãng mạn và văn học hiện thực trước Cách mạng chỉ chiếm
khoảng 30% (câu 3 điểm), nhưng trong đề thi của khối D, M các năm 2002 và 2007
đã chiếm tới 50% (câu 5 điểm).
Vì vậy, các em nên cố
gắng ôn tập đều ở tất cả các phần, các bài trong chương trình thi, không nên
học tủ. Với cách ra đề phân thành nhiều câu, nhiều phần như chủ trương của Bộ,
thì học tủ là rất nguy hiểm. Tuy vậy, các em vẫn nên ôn tập có trọng tâm, trọng
điểm.
Bên cạnh ôn tập kiến
thức, cần rèn luyện kĩ năng làm các kiểu bài tóm tắt về tác giả, tác phẩm và
giai đoạn văn học; kĩ năng phân tích văn xuôi và bình giảng thơ; kĩ năng phân tích
đề, tìm ý, triển khai ý, mở bài, kết bài, chuyển đoạn, trình bày, diễn đạt…
Cần bám sát chương
trình của Bộ và sách giáo khoa, vì đó là văn bản pháp quy của nhà nước, mà đề
thi không được nằm ngoài. Lưu ý rằng tất cả những gì có trong sách giáo khoa đều
có thể thi.
4. Khám phá tác phẩm trong các mối liên hệ
* Các mối liên hệ bên
ngoài:
Tác phẩm văn học là đứa
con tinh thần của nhà văn, nhưng cũng là con đẻ của hoàn cảnh lịch sử, thời
đại, là nơi ghi dấu ấn tâm hồn, tư tưởng, tài năng và tâm huyết nhà văn trong
một thời điểm nhất định. Muốn nắm bắt, cần phải biết tác phẩm đó gắn liền với
hoàn cảnh lịch sử nào.
Ở đây, môn văn gián
tiếp đòi hỏi thí sinh phải có kiến thức về lịch sử, nếu không khó mà phân tích
đúng. Vì vậy, các em cần nắm chắc hoàn cảnh ra đời, ý nghĩa nhan đề và kết cấu
cảm hứng để hiểu sâu và chính xác về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật
tác phẩm, đồng thời qua tác phẩm phải thấy được cả hiện thực thời đại mà nhà
văn sống và sáng tác.
“Qua nhà thơ, người ta
tìm thấy tầm cỡ thời đại” (Jiri Worlker). Nếu không ra đời vào mùa xuân năm
1948, thời điểm mà vấn đề “nhận đường” (Nguyễn Đình Thi), vấn đề “lột xác”
(Nguyễn Tuân) đang đặt ra một cách gay gắt đối với các văn nghệ sĩ trí thức
tiểu tư sản lớp trước, thì “Đôi mắt” sẽ không phải là tuyên ngôn nghệ thuật của
một thế hệ nhà văn đi theo kháng chiến như Nam Cao, Tô Hoài.
Mặt khác, cần tránh xu
hướng xã hội học dung tục, chỉ tìm thấy ở văn chương những ý nghĩa xã hội và
đạo đức. Chẳng hạn, không nên hiểu dòng thơ “Sơn thôn thiếu nữ ma bao
túc”(Chiều tối - Hồ Chí Minh) là “tố cáo chế độ Quốc dân đảng bóc lột sức lao
động của trẻ em”, hoặc dòng thơ “Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san” (Giải đi
sớm - Hồ Chí Minh ) là “nhân dân ủng hộ lãnh tụ” hay “bọn lính áp giải vây
quanh người tù cô đơn nơi đất khách” như có người từng hiểu…
Để hiểu sâu sắc và
chính xác về tác phẩm, cần đặt nó trong mối liên hệ với quan điểm sáng tác, tư
tưởng và phong cách nghệ thuật của nhà văn. Chỉ khi liên hệ với quan niệm về
người tài của Nguyễn Tuân, mới hiểu được tại sao Huấn Cao và ông lái đò sông Đà
lại được nhà văn ngợi ca là những người tài hoa, nghệ sĩ hơn đời.
“Thơ duyên” chính là
hiện thân cho quan điểm “Để tâm hồn ràng buộc bởi muôn dây/ Hay chia sẻ bởi
trăm tình yêu mến” của Xuân Diệu, còn "Hai đứa trẻ" là sự thực thi
thiên chức của một nhà văn luôn khát khao “nâng đỡ cái tốt đẹp để trong đời có
nhiều công bằng hơn, yêu thương hơn”
Khi tìm hiểu một tác
phẩm cũng phải đặt nó trong mối liên hệ mật thiết với giai đoạn văn học, trào
lưu văn học, thời kì hoặc phương pháp sáng tác. Chẳng hạn, khi tìm hiểu các bài
thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử và Thâm Tâm, cần đặt chúng trong đặc
điểm tư tưởng nghệ thuật của phong trào Thơ Mới lãng mạn 1932 - 1945.
Cần lưu ý các tác phẩm Hai
đứa trẻ, Chữ người tử tù…được sáng tác theo phương pháp lãng mạn
nhưng vẫn có một cảm quan hiện thực sâu sắc.
* Các mối liên hệ bên
trong:
Mỗi tác phẩm văn chương
thường có hai phần nổi bật: nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Hai phần
này thường thống nhất với nhau. Tìm hiểu nội dung là nhằm chỉ ra tư tưởng và
quan niệm của nhà văn về con người và cuộc sống, tìm hiểu hình thức là để chỉ
ra tài năng nghệ thuật của nhà văn, cũng như sự thống nhất và phù hợp của hình
thức với nội dung.
Rất ít khi đề thi yêu
cầu trực tiếp là làm rõ hai mặt này. Tuy nhiên, trên thực tế, để giải quyết vấn
đề nào đó của đề thi, trong quá trình đi vào nội dung nhất thiết phải trình bày
nội dung đó được biểu đạt bằng những phương tiện nghệ thuật nào, tìm sự hài hoà
giữa nội dung và hình thức, giữa ý nghĩa tư tưởng và giá trị nghệ thuật.
Nên từ hình thức tìm ra
nội dung và tránh diễn xuôi tác phẩm, văn thơ. Để diễn tả những cung bậc của
một tình yêu trong xa xôi cách trở với nỗi nhớ mong “cả trong mơ còn thức”, với
niềm lo nghĩ, với tình cảm thủy chung, tha thiết, chân thành và cả niềm tin
mãnh liệt vào sức mình trong việc vượt qua những xa xôi, cách trở, mất còn… để
đến với người mình yêu, Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng xa bờ, nhớ bờ, đồng
thời sử dụng thể thơ 5 chữ với lối ngắt nhịp cân đối, âm điệu hài hòa.
Nhịp điệu của bài thơ
chính là nhịp điệu của một cõi lòng đang bị con sóng tình yêu khuấy động.
Thế giới nghệ thuật của
tác phẩm là thế giới hình tượng do nhà văn sáng tạo ra, có quy luật riêng,
thang bậc giá trị riêng, thời gian và không gian nghệ thuật riêng.
Vì vậy khi tìm hiểu tác
phẩm, không được đồng nhất nó với thế giới thực tại ngoài đời, ngay cả khi nhân
vật được xây dựng từ một nguyên mẫu có thật như Hoàng đế An nam trong “Vi
hành”, Hoàng trong “Đôi mắt”, Đào trong “Mùa lạc”, Huấn Cao trong “Chữ người tử
tù”…
“Mọi chân lí sẽ trở nên
sai lầm, nếu chúng ta cứ xét đoán nó trên cơ sở của những kinh nghiệm hàng ngày”
(Ph. Ăngghen). Chân lí nghệ thuật trong tác phẩm văn học cũng vậy.
Thế giới hình tượng
trong tác phẩm được xây dựng nên từ các chi tiết nghệ thuật. Tìm hiểu tác phẩm
phải luôn xuất phát từ chi tiết. Mỗi chi tiêt trong tác phẩm là một ô cửa mở ra
cả một thế giới, là những “chi tiết mang thai” (Hêghen), bởi nó có khả năng
sinh nở ra những ý nghĩa mới.
Tài năng của một nhà
văn lớn bao giờ cũng được làm nên từ những chi tiết nhỏ. Vì vậy, về văn xuôi,
các em nhất định phải nắm được diễn biến câu chuyện, cách kể và giọng điệu của
nhà văn, nhân vật trung tâm và những chi tiết, sự kiện xoay quanh nhân vật
trung tâm đó.
Về thơ, phải nắm được
cảm hứng chủ đạo của nhà thơ, kết cấu cảm hứng của bài thơ, đoạn thơ, những chi
tiết, hình ảnh mà nhà thơ sử dụng để bộc lộ cảm xúc.
Về kịch, phải nắm được
những mâu thuẫn, xung đột, các lời thoại quan trong…Từ các chi tiết nghệ thuật
ấy, tìm ra tư tưởng và tình cảm mà nhà văn gửi gắm cũng như tài năng nghệ thuật
của nhà văn.
Chẳng hạn, “Đào đã đứng
tựa cột bương, cả thân người trên bị mái gianh che tối” là một chi tiết thể
hiện cái nhìn tinh tế và nhân ái của nhà văn. Nguyễn Khải đã dùng bóng tối của
mái gianh để che đi cái xấu xí, thua thiệt trong ngoại hình của Đào, đồng thời
làm nổi bật hơn vẻ đẹp của niềm khát khao hạnh phúc.
Không nên bỏ qua các
chi tiết quan trọng, cũng không nên quá sa đà vào phân tích chi tiết, để tránh
tình trạng chỉ thấy cây mà không thấy rừng.
Thực hiện phương châm
tăng cường chất văn trong việc dạy và học văn, cũng cần bám sát văn bản ngôn từ
và thế giới hình tượng của tác phẩm, chú ý giọng điệu, kết cấu tác phẩm.
Chẳng hạn bài thơ “Đây
thôn Vĩ dạ” của Hàn Mặc Tử được kết cấu toàn bằng những lời ướm hỏi, ba khổ thơ
là ba câu hỏi liên tiếp, nên bài thơ sẽ chủ yếu thể hiện niềm băn khoăn day dứt
của con người, khát vọng chủ quan của nhà thơ chứ không chỉ là vấn đề “vịnh
cảnh hay tỏ tình”.
5. Ôn tập theo vấn đề và nhóm tác phẩm
Những tác phẩm trong
nhóm thường phải có chung một hoặc một số điểm tương đồng, chẳng hạn cùng chung
đề tài (về đất nước, về người lính, về người phụ nữ, về chủ nghĩa anh hùng cách
mạng...), chung thể loại (truyện ngắn, thơ...), chung giai đoạn sáng tác (từ
đầu thế kỉ XX đến năm 1945, từ năm 1945 đến 1975)...
Ôn tập theo hướng này,
các em sẽ có thể giải quyết tốt được cả hai dạng: đề đơn (đề cập tới một tác
phẩm) và đề tổng hợp (đề cập tới nhiều tác phẩm).
Các em nên tập trung
vào các nhóm tác phẩm sau đây:
5.1 Nhóm các tác
phẩm thể hiện đề tài và cảm hứng về đất nước: Tuyên ngôn độc lập, Bên kia sông Đuống, Tiếng hát
con tàu, Đất nước của
Nguyễn Đình Thi, trích đoạn Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm…
5.2 Nhóm các tác phẩm
thể hiện đề tài và cảm hứng về nhân dân: Tuyên ngôn độc lập, Đôi mắt, Việt Bắc, Tiếng hát
con tàu, trích đoạn Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm…
5.3 Nhóm các tác phẩm
thể hiện cảm hứng nhân đạo: Hai đứa trẻ, Chí Phèo, Đời thừa, Vợ chồng A Phủ, Vợ
nhặt, Mùa lạc, Các vị La Hán chùa Tây phương…
5.4 Nhóm các tác phẩm
thể hiện cảm hứng nhân văn: Chữ người tử tù, Người lái đò sông Đà…
5.5 Nhóm các tác phẩm
thể hiện đề tài và cảm hứng về người lính: Tây Tiến, Rừng xà nu, Mảnh trăng cuối rừng, Những
đứa con trong gia đình…
Cần lưu ý là nhóm các
tác phẩm này thường thể hiện rất nổi bật cảm hứng về chủ nghĩa anh hùng cách
mạng Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
5.6 Nhóm các tác phẩm
thể hiện bản lĩnh, khát vọng và vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản
trong những hoàn cảnh thử thách khắc nghiệt của chốn ngục tù: Tâm tư trong tù, Mộ, Tảo giải… hoặc khi
mới được trả tự do: Tân xuất ngục, học đăng sơn.
5.7 Nhóm các tác phẩm
thể hiện đề tài và cảm hứng về thân phận, khát vọng và vẻ đẹp tâm hồn của người
phụ nữ: Đời thừa, Vợ chồng A Phủ, Vợ
nhặt, Mùa lạc, Sóng…
5.8 Nhóm các tác phẩm
thể hiện nỗi nhớ và thái độ ân tình ân nghĩa với quá khứ: Tây
Tiến, Bên kia sông Đuống, Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Tiếng hát con tàu,
Đất nước của Nguyễn Đình Thi.
5.9 Nhóm các tác phẩm
thể hiện sức mạnh của tiếng cười châm biếm trào phúng: Vi
hành và trích đoạn Hạnh
phúc của một tang gia.
5.10 Nhóm các tác phẩm
thể hiện tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn: Đời thừa, Đôi mắt, Tiếng hát con tàu, Vũ Như Tô,
Chiếc thuyền ngoài xa…
5.11 Nhóm các tác phẩm
xây dựng thành công tình huống truyện độc đáo, giàu ý nghĩa: Chữ
người tử tù, Vi hành, Vợ nhặt, Mảnh trăng cuối rừng, Chiếc thuyền ngoài xa…
5.12 Nhóm các tác phẩm
thể hiện đề tài và cảm hứng về Tây Bắc: Tây Tiến, Vợ chồng A Phủ, Tiếng hát con tàu, Mùa
lạc, Người lái đò sông Đà…
5.13 Nhóm các tác phẩm
thể hiện tâm trạng và khát vọng của cái Tôi Thơ Mới: Đây
mùa thu tới, Vội vàng, Thơ duyên, Tràng giang, Đây thôn Vĩ dạ, Tống biệt hành…
Ở các tác phẩm này cũng
như các tác phẩm văn học lãng mạn khác, cần lưu ý “nỗi đau khổ của người dân
mất nước, sự quằn quại của tâm hồn bị bóp nghẹt, lòng khao khát một cuộc sống
chân thật, tự do”( Trường Chinh – Bài nói tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần
thứ 2 năm 1957), và lòng yêu nước kín đáo, tinh thần dân tộc thấm thía được
biểu hiện qua lòng yêu tiếng mẹ đẻ:
“Họ dồn tình yêu quê
hương trong tình yêu Tiếng Việt. Tiếng Việt, họ nghĩ , là tấm lụa đã hứng vong
hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi
nỗi băn khoăn riêng”( Hoài Thanh - Thi nhân Việt nam -1941) .
Sau khi tập hợp các tác
phẩm thành từng nhóm, cần phải phát hiện được:
- Những nét độc đáo của
tác phẩm này so với tác phẩm khác.
- Những nét chung của
tác phẩm trong nhóm.
Chẳng hạn, cùng viết về
đất nước quê hương nhưng “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, “Đất nước” của
Nguyễn Đình Thi và trích đoạn “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm vẫn có những khám
phá, cảm nhận và thể hiện riêng, với những sắc thái tình cảm riêng.
Hoàng Cầm đau đớn, nhớ
tiếc, “xót xa như rụng bàn tay” trước một miền quê cụ thể có vẻ đẹp cổ kính và
truyền thống văn hóa nghệ thuật lâu đời đang bị kẻ thù chiếm đóng, hủy hoại;
Nguyễn Đình Thi tự hào,
hãnh diện trước một đất nước mới hồi sinh tự do “tươi thắm vô ngần”, sau khi
trải qua những ngày nô lệ, đau thương;
Nguyễn Khoa Điềm lại tự
hào về một đất nước “của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại”, một đất
nước do những người “không ai nhớ mặt đặt tên” hóa thân mà thành, do nhân dân
vô danh gìn giữ, dựng xây và truyền lại cho các thế hệ sau.
Một số đề chung cho các
nhóm tác phẩm trên thường được nêu ở những trang cuối cùng của sách giáo khoa
cải cách giáo dục, trong phần Hướng dẫn ôn tập cuối năm, hoặc phần bài tập nâng
cao ở cuối mỗi bài học trong sách giáo khoa phân ban.
6. Học văn theo ý,
kết hợp tư duy và tái hiện
Bài văn hay, đạt điểm cao, thậm chí điểm tuyệt đối là bài văn
có một hệ thống ý đầy đủ, sáng tạo, chặt chẽ, đáp ứng toàn diện yêu cầu của đề,
được thể hiện qua một hình thức trình bày và diễn đạt chính xác, trong
sáng, rõ ràng, tinh tế, khéo léo, có hình ảnh và cảm xúc.
Các giám khảo chấm bài
thi cũng phải so sánh giữa hệ thống ý của bài văn và hệ thống ý mà Bộ
GD&ĐT đề ra trong đáp án và biểu điểm chấm thi để cho điểm. Vì vậy, khi học
văn, các em cần tránh học vẹt, mà nên học theo ý (theo luận điểm).
Cần nhớ số lượng ý lớn,
ý nhỏ trong từng bài, từng đề, rồi mới nhớ nội dung của từng ý, từng luận điểm.
Học theo ý, mới có thể dễ nhớ, nhớ lâu và sâu sắc.
Khi làm bài, các em nên
diễn đạt lại những ý đó theo cách của mình. Những bài văn mẫu, những bài giảng
các thầy, các cô cho ghi, dù hay đến đâu, cũng chỉ nên coi như 1 tài liệu tham
khảo cách diễn đạt. hoặc xem lại ý khi quên.
Nói như người xưa, ý
là“bột”, bài văn là“hồ”, còn quá trình diễn đạt ý thành bài là “gột”. “Có bột
mới gột nên hồ”.
Giống như quá trình tư
duy, quá trình nhận thức của con người, khi học và làm văn, cũng cần qua 3 bước
là HIỂU - NHỚ - VẬN DỤNG. Muốn vận dụng được kiến thức đã học vào bài làm văn,
cần phải nhớ và hiểu được những kiến thức ấy.
Muốn nhớ được kiến thức
thì trước hết phải hiểu nó. Muốn hiểu thì phải chịu khó tìm tòi, suy nghĩ, đọc
tài liệu tham khảo, chăm chú nghe giảng bằng tất cả niềm say mê, tâm huyết của
mình, giống như niềm đam mê của nhân vật Hộ trong “Đời thừa” của Nam Cao: “Hắn
đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán!”…
Học văn không phải là
cắm đầu ghi cho đầy vở, mà là phải hiểu, nhớ và ghi lại các ý hay, các luận
điểm quan trọng. Nếu tìm được thầy dạy giỏi, hay, hấp dẫn, tâm huyết…các em có
thể nhớ được ít nhất 90% kiến thức ngay trên lớp, về nhà chỉ cần học thêm
khoảng 10% và xem lại những kiến thức nắm chưa thật chắc.
Gặp những vấn đề chưa
hiểu, các em cứ mạnh dạn hỏi, chắc chắn không thầy cô nào từ chối, dù họ có bận
và mệt đến đâu.
Kiến thức càng sắp xếp
khoa học, chặt chẽ, rành mạch bao nhiêu, càng dễ nhớ bấy nhiêu. Để tránh học
vẹt, khi học văn, các em không nên cầm sách học thuộc lòng, mà nên học theo
phương pháp tái hiện.
Sau giờ học trên lớp,
hãy dành thời gian tĩnh tâm (khoảng 20 - 30 phút) để nhớ lại kiến thức vừa học,
nhất là hệ thống ý lớn, ý nhỏ. Sau đó mới mở sách ra kiểm tra lại. ý nào mình
chưa nhớ được thì cần phải học ngay.
Học theo cách này, các
em có thể học ở bất kì đâu, thậm chí không cần sách vở. Nếu có bạn cùng học,
hai người kiểm tra kiến thức cho nhau là tốt nhất. Việc hệ thống kiến thức theo
các bảng, theo các nhánh cây, các mô hình, và việc liên hệ giữa văn học với cuộc
sống, nhất là cuộc sống của bản thân cũng giúp các em nhớ kiến thức lâu và sâu
sắc.
Sau khi đã hiểu và nhớ
kiến thức, cần vận dụng lại kiến thức bằng cách làm bài tập, hoặc giải đề thi
thử, giải lại một đề đã thi… Dù có học văn - tiếng Việt 12 năm, nhưng cuối cùng
của việc thi đại học, cao đẳng vẫn chỉ là viết 3 bài văn nhỏ theo yêu cầu của 1
đề thi trong vòng 180 phút. Vì vậy không gì tốt hơn là tập viết bài theo yêu
cầu của đề thi đại học. Các em có thể tự xây dựng đáp án, biểu điểm, tự chấm
bài cho nhau, hoặc nhờ ai đó chấm.
Để dễ nhớ dẫn chứng và
học văn đạt kết quả tốt, cần đọc tác phẩm. Các em nên đọc trước khi bài được
học trên lớp, khi chưa hề nghe giảng, đọc bằng một văn bản hoàn toàn mới, chưa
hề có ai đánh dấu.
Điều này rất quan
trọng, bởi những ấn tượng ban đầu của các em khi tiếp xúc với tác phẩm sẽ được
nhớ rất lâu, và giúp định hướng hiểu tác phẩm.
Các em nên đọc tác phẩm
và học văn vào sáng sớm, khi đọc, nên đánh dấu lại những chi tiết, hình ảnh, từ
ngữ mà mình cho là quan trọng, hoặc thấy hay, thấy có ý nghĩa và xúc động, đồng
thời ghi nhớ luôn các chi tiết ấy vào não để vận dụng lại vào bài viết sau này.
Nhìn chung, để học văn
đạt hiệu quả cao, các em phải học văn bằng chính cái đầu và trái tim của mình,
tự tìm một con đường đi cho riêng mình. Giáo viên là người hướng dẫn, dìu dắt,
đồng thời đánh giá, thẩm định kết quả, chứ không làm thay, học thay, nghĩ hộ
các em được.