Cách làm bài thi môn Văn đạt điểm cao
Một bài văn thực sự đạt kết quả tốt, cần đáp ứng được các
yêu cầu về nội dung của đề bài (như kiểu bài, các kĩ năng và thao tác nghị
luận, kiến thức, phạm vi dẫn chứng…) và yêu cầu về hình thức (trình bày, diễn
đạt…).
1.
Nắm vững cấu trúc và mức độ của đề thi
Trong tài liệu phục vụ việc ra đề thi tuyển sinh vào đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, ở phần II - Về cấu trúc và mức độ yêu
cầu của đề thi - Bộ GD&ĐT có khuyến nghị:
"Nên chia đề thi thành nhiều phần để tiện kiểm tra về
kiến thức và kĩ năng được rộng hơn và nhất là để việc chấm thi được chính xác
và thuận lợi hơn. Đề thi cần ghi rõ số điểm dành cho từng phần.
Ngoài những đề yêu cầu trình bày sự cảm nhận, phân tích...
liên quan đến một tác phẩm (hoặc một khía cạnh, một đoạn trích... của tác
phẩm), cần có những đề tổng hợp yêu cầu vận dụng sự hiểu biết về nhiều tác
phẩm.
Không nên ra những đề quá khó và nhất là cần tránh những
đề thí sinh có thể sao chép tài liệu một cách dễ dàng" (trang 74).
Kì thi đại học, cao đẳng năm 2008, đối với môn Văn, Bộ
GD&ĐT chủ trương vẫn tiếp tục thi đề tự luận. Việc chia nhỏ đề thi thành
nhiều câu nhằm kiểm tra được nhiều phạm vi kiến thức và nhiều kĩ năng hơn.
Đề thi tuyển sinh (đề chung) vào các trường đại học và cao
đẳng môn văn, theo lộ trình đổi mới giáo dục và cải tiến thi cử, đánh giá của
Bộ GD&ĐT, năm 2008, về cơ bản, có kết cấu gồm 2 phần với 3 câu hỏi.
Phần chung cho tất cả thí sinh, gồm câu I và câu II. Phần
tự chọn gồm câu IIIa dành cho chương trình chưa phân ban và câu IIIb dành cho
chương trình phân ban thí điểm.
Thí sinh chỉ được chọn làm một trong hai câu này, không
nhất thiết phải theo đúng ban mình đã theo học, nhưng không được làm cả hai
câu. Trường hợp làm cả hai câu, sẽ bị hủy phần bài làm này,
a. Câu I, thường 2 điểm, nhằm kiểm tra kiến thức cơ bản,
phổ thông và khái quát nhất như:
- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt những đặc điểm chính về
con người, cuộc đời của một nhà văn.
- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt sự nghiệp văn học của
một tác giả.
- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt quan điểm sáng tác văn
học (quan điểm nghệ thuật) của một tác giả (chỉ có ở 2 tác giả Nam Cao và
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh).
- Trình bày những nét chính trong phong cách nghệ thuật
của một tác giả (chỉ có ở 3 tác giả Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuân
và Tố Hữu).
- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt hoàn cảnh ra đời của
một tác phẩm.
- Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
- Khái quát ngắn gọn giá trị tư tưởng nghệ thuật, nhất là
giá trị nhân đạo, của một tác phẩm.
- Nêu hoặc phân tích ngắn gọn nhưng đặc điểm và thành tựu
chính của giai đoạn văn học 1945 - 1975.
Ở câu này, mấy năm trước, đáp án của Bộ cho phép thí sinh
trả lời theo hình thức gạch đầu dòng. Nhưng tôi khuyên các em không nên viết
theo cách ấy vì tâm lý người chấm thi môn văn đánh giá rất thấp kiểu viết gạch
đầu dòng.
b. Câu II, thường 5 điểm, hay kiểm tra năng lực cảm
thụ văn xuôi, phân tích nhân vật, tác phẩm văn xuôi hoặc một vấn đề văn học sử
hay lí luận văn học nào đó. Ví dụ câu 2 đề khối D năm 2007, yêu cầu phân tích
vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại của bài thơ Tràng giang (Huy Cận).
c. Câu IIIa và IIIb, thường 3 điểm, nhằm kiểm tra năng lực
cảm thụ thơ, phân tích hoặc bình giảng 1 khổ hoặc 1 đoạn thơ ngắn, như câu 3 đề
khối C năm 2007, yêu cầu cảm thụ 10 dòng đầu bài thơTống biệt hành của
Thâm Tâm.
Cũng có thể yêu cầu phân tích một hình tượng nhỏ như hình
tượng ánh trăng, mảnh trăng trongMảnh
trăng cuối rừng, hình tượng rừng xà nu, cây xà nu trong Rừng
xà nu.
Nếu làm tốt, các em có thể đạt điểm tuyệt đối ở câu I, nhưng
để đạt được số điểm trọn vẹn ở câu II và câu IIIa, IIIb thì vô cùng khó, nếu
như không muốn nói là không thể, trừ số ít thí sinh rất xuất sắc.
Ngoài ra, không loại trừ trường hợp đề thi sẽ bớt điểm số
ở câu 2 hoặc câu 3 để có thêm một câu hỏi (câu 4, làm trong thời gian 18 phút)
khoảng 1 điểm, nhằm phân hóa trình độ thí sinh.
Câu hỏi này sẽ khó hơn, đòi hỏi thí sinh phải có năng lực
tư duy và diễn đạt. Chẳng hạn: So với trước Cách mạng, phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân sau Cách mạng có biến đổi nào đáng chú ý? Vì sao Nguyễn Tuân
lại tìm đến thể loại tùy bút như một điều tất yếu.
2. Xác định đầy đủ, chính xác yêu cầu của đề
Trước khi làm bài, các em cần đọc kĩ đề và xác định đầy đủ
yêu cầu của đề thi về các phương diện như kiểu bài: xác định xem đề bài yêu cầu
sử dụng kĩ năng nghị luận nào: trình bày, giải thích, chứng minh, bình giảng,
phân tích, so sánh hay kiểu bài tổng hợp đòi hỏi kết hợp nhiều kĩ năng nghị
luận);
Đối tượng và nội dung nghị luận: Đề bài yêu cầu giải quyết
vấn đề gì?;
Phạm vi kiến thức và dẫn chứng: Để giải quyết vấn đề đó,
cần huy động và sử dụng những kiến thức và dẫn chứng nào cho phù hợp và có sức
thuyết phục cao nhất);
Đồng thời, các em xác định nội dung và hình thức trình bày
bài viết. Điều này sẽ giúp bài văn không bị lạc đề, xa đề.
Các em nên xác định yêu cầu của đề thi trong thời gian
nhanh nhất, để dành thời gian làm bài. Phải cố gắng làm hết tất cả các câu
trong yêu cầu của đề bài, không được bỏ sót ý nào, dù là nhỏ nhất.
Nếu bỏ 1 câu, thì 2 câu còn lại có làm tốt đến đâu đi nữa,
điểm số của bài vẫn thấp hơn khi làm đủ 3 câu, dù các câu làm chưa thật tốt,
thậm chí còn sơ sài.
Trong biểu điểm của Bộ GD&ĐT, trước khi phân tích,
bình giảng, ngay phần giới thiệu tác phẩm và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm cũng
được 0,25 điểm, mà phần này chỉ cần viết vài dòng. Các em hãy chắt chiu từng
chút điểm nhỏ như thế, bởi một bài văn có điểm cao bao giờ cũng được làm nên từ
những điểm số nhỏ trong từng ý, từng câu như thế.
3. Vận dụng chính xác, linh hoạt, nhuần nhuyễn các kiểu
bài, các kĩ năng và thao tác nghị luận
Để bài văn đạt kết quả cao, cần vận dụng chính xác, linh
hoạt, nhuần nhuyễn các kiểu bài, các kĩ năng và thao tác nghị luận. Các em nên
tập trung rèn luyện năng lực trình bày tóm tắt 1 vấn đề văn học, năng lực cảm
thụ văn học và các kiểu bài so sánh, phân tích, bình giảng văn học (nhất là
phân tích văn xuôi và bình giảng thơ).
Đây là những kiểu bài thể hiện chất văn chương rõ nét
nhất, và thường hay thi nhiều nhất. Các em cũng cần vận dụng nhuần nhuyễn các
kiểu bài sau:
* Phương pháp làm các kiểu bài trình bày tóm tắt một vấn
đề văn học.
* Phân tích văn học là kiểu bài nghị luận đem một hiện
tượng văn học (tác phẩm, vấn đề) chia nhỏ ra thành từng bộ phận hay phương diện
để xem xét từng phần rồi đem kết quả tổng hợp lại trong một kết luận chung.
Phân tích văn học là chỉ ra các giá trị nội dung, nghệ
thuật qua các chi tiết cụ thể. Không cần và không thể phân tích mọi chi tiết.
Chỉ cần chọn phân tích những chi tiết tiêu biểu nhất, nói lên tư tưởng quan
trọng của nhà văn, phù hợp với chủ đề phân tích của đề bài.
Các kiểu bài phân tích văn học thường có trong đề thi là:
Phân tích tác phẩm hoặc một đoạn tác phẩm, phân tích hình tượng nhân vật, phân
tích diễn biến tâm trạng nhân vật, phân tích các vấn đề văn học, phân tích chi
tiết nghệ thuật và nhan đề tác phẩm.
* Bình giảng văn học (đề thi thường chỉ yêu cầu bình giảng
thơ): là giảng giải, đánh giá, bình phẩm về nghĩa lí, ý tứ của bài văn, lời
văn, giúp cho người đọc cảm thụ và đánh giá tác phẩm văn học một cách toàn vẹn.
Bình giảng văn học chỉ khám phá những điểm nút, những từ
ngữ chìa khoá, những thi nhãn, những mạch ngầm để mở đường thưởng thức văn bản,
chứ không che lấp hay thay thế văn bản nghệ thuật.
Khi bình giảng, cần chú ý tới những chỗ trống, chỗ lạ hoá,
khác thường trong văn bản, đặc biệt là cách cấu tạo hình tượng, các chi tiết
giàu ý nghĩa, các từ ngữ dùng đắt hoặc kết hợp đặc biệt.
Từ chỗ độc đáo đặc thù đó, tìm đến mạch lạc bên trong của
bài thơ, bài văn, khám phá mối liên hệ không gian, thời gian, cách cảm nhận
riêng của tác giả cũng như cấu tứ, bố cục của tác phẩm.
Khi bình giảng thơ, để hệ thống ý của bài văn được chặt
chẽ, điều quan trọng nhất là phải hiện ra cấu trúc của đoạn thơ, bài thơ. Đối
với các bài thơ, đoạn thơ có sử dụng hình thức lặp cấu trúc, liệt kê, điệp từ như Tâm
tư trong tù, Việt Bắc, Đất nước của
Nguyễn Khoa Điềm thì khi bình giảng, để tránh bài viết lặp lại một cách nhàm
chán, tuyệt đối không được bình từng dòng, mà phải nhóm các chi tiết, hình ảnh
thành một hệ thống, rồi mới giảng và bình về hệ thống ấy.
Chẳng hạn 9 dòng đầu của đoạn thơ Đất
nước (Nguyễn Khoa
Điềm), có sự lặp đi, lặp lại của điệp khúc“Đất Nước đã có…”, “Đất Nước có
trong…”, “Đất Nước bắt đầu…”, “Đất Nước lớn lên…”, “Đất Nước có từ…” cho thấy
nhà thơ trầm tư suy ngẫm về thời điểm ra đời của Đất
Nước (gồm các dòng
1,3,9), quá trình lớn lên (dòng 4) và phạm vi tồn tại của Đất
Nước (dòng 2).
Vì vậy, khi bình giảng đoạn thơ này, cần chú ý nhóm các
dòng thơ 1,3,9 thành một ý, dòng 4 là một ý và dòng 2 là một ý. Từ “ngày đó” là
phép thế đại từ có ý nghĩa thay thế cho các dòng 5,6,7,8, nên để hiểu được ý
nghĩa dòng thơ thứ 9, cần hiểu được các dòng thơ trước đó.
4.
Mở bài và kết bài nhanh, ngắn
Đã là bài văn, dù dài hay ngắn, đều phải có mở và kết bài.
Cần tập trung rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài để có thể mở bài thật nhanh,
kết bài thật ấn tượng.
Không nên mất quá nhiều thời gian vào việc mở và kết bài,
bởi mở bài giống như một chút rượu khai vị trước bữa ăn, còn kết bài giống một
món tráng miệng, thân bài mới là bữa tiệc chính cần thưởng thức.
Nên mở và kết bài ngắn, tránh dài như bài làm văn học sinh
giỏi, vì bài thi đại học gần với bài thi tốt nghiệp THPT hơn là bài thi học
sinh giỏi.
Trong một bài thi đại học, với đề 3 câu, các em cần phải
viết đủ 3 mở bài, 3 kết bài. Ở câu 2 điểm, nên mở và kết bài khoảng 2 - 3 dòng;
câu 5 điểm, nên mở và kết khoảng 5 - 7 dòng; câu 3 điểm, nên mở và kết khoảng 3
- 4 dòng. Mỗi câu, nên mở và kết bài theo một cách riêng.
Có nhiều cách mở và kết bài, nhưng các cách mở bài gián
tiếp thường hay hơn, nên mang lại điểm số cao hơn. Ví dụ, với đề văn phân tích
diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ, có thể có nhiều cách để mở và kết
bài:
- Mở bài 1: Vốn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”,
truyện ngắn “Vợ nhặt” kết tinh tài năng phân tích tâm lí đặc sắc của Kim Lân,
nhất là khi nhà văn thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ.
Kết bài 1: Thể hiện thành công diễn biến tâm trạng của
nhân vật bà cụ Tứ , Kim Lân đã bộc lộ tài năng nghệ thuật độc đáo và tư tưởng
nhân đạo sâu sắc, mới mẻ, cảm động của mình.
- Mở bài 2: Suốt một đời cầm bút, Kim Lân chỉ để lại vẻn
vẹn có 2 tập truyện ngắn là “Con chó xấu xí” và “Nên vợ nên chồng”. Nhưng trong
văn chương, “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, nên chỉ riêng truyện ngắn “Vợ nhặt”
đã là niềm ao ước của nhiều người cầm bút. Ở thiên truyện này, diễn biến tâm
trạng của nhân vật bà cụ Tứ được nhà văn khắc họa vô cùng tinh tế và giàu ý
nghĩa.
- Kết bài 2: Với tâm hồn của một nhà văn “thuần hậu”,
“nguyên thủy”, “một lòng đi về với đất, với người” (Nguyên Hồng), Kim Lân đã
thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ vô cùng tinh tế, chân thực,
và sâu sắc. Thành công ấy vừa chứng tỏ tài năng và bản lĩnh nghệ thuật độc đáo
của nhà văn, vừa góp phần giúp cho “Vợ nhặt” trở thành niềm ao ước của nhiều
người cầm bút.
- Mở bài 3: “Vũ trụ có nhiều kì quan, nhưng kì quan tuyệt
diệu nhất vẫn là trái tim người mẹ” (B.Sô). Vẻ đẹp lớn lao kì vĩ của trái tim
người mẹ và tình mẫu tử thắm thiết thiêng liêng cũng ngời lên trọn vẹn và sâu
sắc qua diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ
nhặt” của Kim Lân
- Kết bài 3: Kim Lân đã thể hiện diễn biến tâm trạng của
nhân vật bà cụ Tứ với tất cả nỗi nghẹn ngào, tình yêu thương và lòng mong mỏi
của một người mẹ nhân từ, đồng thời thức tỉnh nơi tâm hồn mỗi người sức mạnh
của tình nghĩa và đạo lí, cũng như ý nghĩa hạnh phúc lớn lao của tình mẫu tử
thiêng liêng, đúng như một nhà văn từng khẳng định: “Sung sướng thay cho những
ai có một bà mẹ nhân từ”.
Các mở và kết bài 1 là trực tiếp, mở và kết bài 2, 3 là
gián tiếp. Phần in đậm và nghiêng chính là vấn đề, là nội dung mà đề bài yêu
cầu phải giải quyết.
Chỉ cần bám sát yêu cầu của đề bài, cùng với cách diễn đạt
khéo léo và một vài câu danh ngôn ý nghĩa, là các em có thể viết nên một mở bài
theo kiểu gián tiếp vừa nhanh, ngắn, lại vừa đúng và hay.
Trong trường hợp quá bí, các em có thể lấy ngay việc nêu
hoàn cảnh ra đời của tác phẩm làm mở bài, tất nhiên phải nêu một cách thật khéo
léo và tinh tế.
Quan trọng nhất là mở bài phải bám sát được yêu cầu của
đề, giới hạn được nội dung và phạm vi của vấn đề cần giải quyết; kết bài cần
phải khái quát lại và phát triển, nâng cao hơn vấn đề đã giải quyết ở thân bài.
Không làm được điều đó, thì dù mở và kết bài có ngắn, nhanh và khéo léo đến đâu
chăng nữa cũng trở nên vô ích.
5. Tìm ý (luận điểm) nhanh, đúng, đủ và sắp xếp triển khai
ý hợp lý
Bài văn hay, đạt điểm cao, thậm chí điểm tuyệt đối là bài
văn có một hệ thống ý đầy đủ, sáng tạo, chặt chẽ, đáp ứng toàn diện yêu cầu của
đề, được thể hiện qua một hình thức trình bày và diễn đạt chính xác, trong
sáng, rõ ràng, tinh tế, khéo léo, có hình ảnh và cảm xúc.
Các giám khảo chấm văn cũng phải so sánh giữa hệ thống ý
của bài văn và hệ thống ý mà Bộ đề ra trong đáp án và biểu điểm chấm thi để cho
điểm. Vì vậy, khi giải quyết một đề văn, điều quan trọng nhất là phải tìm ra ý.
Thí sinh nào tìm được hệ thống ý đầy đủ hơn, sâu sắc và
mới mẻ hơn, sắp xếp và trình bày ý mạch lạc, chặt chẽ hơn, thì bài làm của thí
sinh đó có điểm số cao hơn.
Quá trình tìm ý (luận điểm) cho bài văn, thực chất là đi
ngược lại quá trình sáng tác của nhà văn. Khi sáng tác, trước hết nhà văn có ý
tưởng trong đầu, sau đó thể hiện ý tưởng ấy qua hệ thống hình tượng và thế giới
nghệ thuật của tác phẩm, mà hệ thống hình tượng và thế giới nghệ thuật này lại
được xây dựng từ các chi tiết nghệ thuật.
Ngược lại, khi làm văn, các em nên xuất phát từ chi tiết
nghệ thuật để phân tích hệ thống hình tượng và thế giới nghệ thuật của tác
phẩm, từ đó tìm ra ý (luận điểm) theo yêu cầu của đề bài. Khác với nhà văn, sau
khi tìm ra ý, các em còn phải diễn đạt hệ thống ý đó thành một bài văn hoàn
chỉnh.
Để tìm ra ý cần dựa vào yêu cầu của đề bài, kết hợp với
kiến thức mà các em đã học, hoặc đã đọc. Sau khi đã tìm ra các ý, cần xác định
xem ý nào là ý chính, có vai trò quan trọng, để tiến hành phân tích kĩ lưỡng; ý
nào là ý phụ, chỉ cần phân tích ngắn gọn hoặc lướt qua; cũng như mối quan hệ
qua lại giữa các ý trong hệ thống, đồng thời sắp xếp ý theo một trình tự hợp lí
và có ý nghĩa nhất.
Chẳng hạn khi phân tích nhân vật Huân trong “Mùa lạc”, cần
làm nổi bật các ý và trình tự sắp xếp các ý như sau:
- Vẻ đẹp ngoại hình với nhiều nét hoàn mĩ tới lí tưởng.
- Tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, tài hoa (thổi tiêu, vẽ tranh,
“tay hề đại tài”)
- Đẹp trai, có tài, nhưng Huân không kiêu ngạo, mà có tâm
hồn nhân hậu, biết yêu thương, chia sẻ, cảm thông.
- Trải qua năm tháng, chiến tranh, gian khổ, Huân có một
tâm hồn trong sáng, nghị lực phi thường và lí tưởng sống cao đẹp.
- Không chỉ cao đẹp trong lí tưởng chung, nhiệm vụ chung,
Huân còn hiện lên rất cao đẹp trong tình yêu riêng tư.
- Qua nhân vật Huân, Nguyễn Khải đã gửi gắm nhiều quan
niệm riêng về con người và cuộc sống.
Xin nhắc lại rằng, nói như người xưa, ý là “bột”, bài văn
là “hồ”, còn quá trình diễn đạt ý thành bài là “gột”. “Có bột mới gột nên hồ”.
6.
Tư duy sắc, cảm nhận tinh tế
Năng lực tư duy sắc sảo, cảm nhận văn chương tinh tế và
trình độ kiến thức chuẩn mực là điều kiện quan trọng để làm nên bài văn cao
điểm.
- Tư duy trong bài văn phải rành mạch, trong sáng, chính
xác, rõ ràng, tránh lan man dây cà ra dây muống (thể hiện ở cách triển khai hệ
thống ý và cách kết cấu bài viết).
Tư duy phải sắc sảo, thông minh. Để bài văn đạt kết quả
cao, rất cần người viết khẳng định được bản lĩnh riêng, cá tính riêng, giọng
điệu riêng của mình trước vấn đề mà đề bài yêu cầu giải quyết.
Ví dụ, các em hoàn toàn có quyền không tán thành với cách
dùng từ “chưa” trong câu thơ “Nước những
người chưa bao giờ khuất” của
Nguyễn Đình Thi, bởi từ “chưa”
chỉ bao quát được quá khứ và hiện tại, không bao quát được tương lai. Tất
nhiên, những suy nghĩ và cảm nhận riêng trong bài văn đều phải có căn cứ khoa
học.
- Người viết phải tỏ ra nhạy cảm, sâu sắc và tinh tế trong
năng lực cảm nhận văn chương. Hãy cảm nhận mỗi chi tiết, hình ảnh, ngôn từ của
tác phẩm bằng tất cả trí tuệ, tình cảm, sự say mê và niềm tâm huyết của mình.
Chỉ những người học văn tầm thường mới hiểu chi tiết “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát”
là hành động uống rượu đơn thuần. Người học văn sâu sắc và nhạy cảm sẽ nhận ra
rằng, cứ mỗi bát rượu, Mị như uống theo vào trong tâm hồn đau khổ của mình bao
nhiêu nỗi tủi hờn, uất ức của cảnh làm dâu…
- Người làm văn phải biết cách huy động kiến thức, tài
liệu vào một bài viết cụ thể. Kiến thức trong bài văn phải chuẩn mực, chính
xác, đúng trọng tâm.
Kiến thức uyên bác, phong phú, có chọn lọc, mới mẻ, nhiều
sáng tạo, có ý kiến riêng, thể hiện bản lĩnh và năng lực của người viết sẽ giúp
cho bài văn có điểm số cao hơn.
Nên nhớ, “mỗi tác phẩm nghệ thuật, nhất là nghệ thuật ngôn
từ, bao giờ cũng là một phát hiện về nội dung và một khám phá về hình thức”(
Lêônít Lêônốp). Văn học là lĩnh vực của cái riêng, độc đáo, không lặp lại, phải
“khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao)… nên cần
chỉ ra cái mới mẻ hoặc nét riêng độc đáo của tác phẩm, tác giả, của một giai đoạn,
trào lưu, hay nền văn học.
Bài viết phải toát lên một năng lực riêng, bản lĩnh riêng
của người viết. Trong văn chương, không có gì buồn hơn là lặp lại người khác và
lặp lại chính mình. Khi làm văn, tuyệt đối không nên sao chép.
7. Tư duy lịch sử và so sánh
Tăng cường tư duy lịch sử và tư duy so sánh, liên tưởng để
bài văn độc đáo và sâu sắc.
- Tư duy lịch sử thể hiện chủ yếu ở việc thấy được sự nối
tiếp, kế thừa và sáng tạo của người đi sau đối với người đi trước, ngay khi
viết về cùng một đề tài.
Chẳng hạn, cần chỉ ra sự kế thừa và sáng tạo của Xuân Diệu
khi thể hiện đề tài và hình tượng mùa thu trong “Đây mùa thu tới” so với thơ ca
truyền thống. Kiến thức có hệ thống, sắp xếp theo đúng tiến trình lịch sử văn
học cũng là một biểu hiện của tư duy lịch sử.
- Tư duy so sánh không chỉ thể hiện ở cái nhìn so sánh
lịch đại mà còn ở việc so sánh tương đồng, tương phản, so sánh đồng đại. Chỉ có
so sánh mới chỉ ra được sự khác biệt, nét độc đáo của tác phẩm văn học này so
với tác phẩm văn học khác, nhân vật này so với nhân vật khác, tác giả này so
với tác giả khác, cũng như sự kế thừa và sáng tạo trong văn học, thậm chí cả sự
ổn định và biến đổi trong phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Những so sánh tinh tế, sâu sắc và có cơ sở sẽ giúp bài văn
có điểm cao hơn. Sau đây là một vài ví dụ so sánh của chúng tôi:
• Cùng chạy trốn trong một đêm tối trời tối đất, nhưng nếu
chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố lâm vào bước đường cùng, thì nhân vật Mị
trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài lại có sự thay đổi số phận theo chiều hướng
tươi sáng và tốt đẹp hơn. Đó là cái nhìn nhân đạo mà chỉ văn học sau cách mạng
mới đạt được.
• Nếu lúc ngày tàn, tiếng trống thu không còn “vang xa để
gọi buổi chiều”, thì trong đêm tối, tiếng trống cầm canh chỉ “đánh tung lên một
tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối”. Thạch
Lam đã cho thấy cái uy lực ghê gớm của một thứ bóng tối đang dựng thành hình
khối, ngăn cản cả âm thanh…
• Trước Cách mạng, Nam Cao chỉ thấy người nông dân là
những nạn nhân khốn khổ, đáng thương của hoàn cảnh (Lão Hạc…), hoặc vừa là nạn
nhân, vừa là tội nhân (Chí Phèo), thì đến “Đôi mắt”, nhà văn đã phát hiện ra
sức mạnh to lớn và tầm vóc lịch sử của người nông dân, khi thấy họ là động lực
của cách mạng và lịch sử, là chủ nhân của hoàn cảnh, chủ nhân của đời mình.
- Tư duy lịch sử và tư duy so sánh, liên tưởng đòi hỏi tầm
văn hoá, tầm kiến thức uyên bác về văn học, lịch sử, xã hội, địa lí, đời sống…
của người học, và giúp tìm ra những khám phá, những sáng tạo mới mẻ trong văn
học..
8.
Tăng cường chiều sâu tư tưởng và lí luận
Để tăng cường chiều sâu tư tưởng cho bài văn, cần chú
trọng khám phá những lớp ý nghĩa sâu sắc hơn, chìm lấp của văn bản nghệ thuật.
Mỗi tác phẩm văn học là cả một hệ thống ý nghĩa sâu sắc,
mà chỉ những người có năng lực cảm thụ tinh tế, sắc sảo và vốn văn hóa sâu rộng
mới có thể nhận ra.
Người học văn cần hiểu hết bảy phần chìm của “Tảng băng
trôi” như O.Hemingway từng nói. Chẳng hạn, tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” không chỉ ca ngợi những “vẻ đẹp vàng
mười nơi tâm hồn con người vùng Tây bắc”, mà còn là bài ca về tư thế tự do và
niềm tin vào khả năng chiến thắng của Con Người trong cuộc đọ sức muôn thuở với
thiên nhiên, một thiên nhiên vừa là “cố nhân”, là bầu bạn, vừa như “kẻ thù số
một” của con người.
Tác phẩm cũng góp phần giải phóng ý thức của con người
khỏi “nỗi khiếp đảm vũ trụ, nỗi sợ thiên nhiên” như M.Bakhtin từng lưu ý. Tương
tự như thế, cần thấy được chiều sâu ý nghĩa của các tác phẩm Ông
già và biển cả, Hăm lét, Truyện Kiều…Đó là xu hướng học văn có
chiều sâu, rất được đề cao hiện nay.
Lí luận văn học tồn tại dưới hai hình thức cơ bản:
- Lí luận nguyên lí là các khái niệm, nguyên lí, các vấn
đề văn học được khái quát, đúc rút từ thực tiễn sáng tác văn học và các tác
phẩm văn học. Người học văn cần nắm vững các nguyên lí lí luận văn học để việc
phân tích, cảm nhận văn học được tinh tế, sâu sắc, chính xác và đáng tin cậy
hơn.
- Lí luận vận dụng: Vận dụng các tri thức lí luận để khám phá
tác phẩm văn học, các vấn đề văn học. Đây là hướng tiếp cận văn học rất có ưu
thế của thi pháp học hiện đại.
Để bài viết có chiều sâu lí luận, không nhất thiết cứ phải
trích dẫn những lời lẽ của các nhà văn, hay nhà lí luận. Chiều sâu lí luận của
bài viết còn thể hiện ở sự am hiểu của người viết về các đặc trưng và quy luật
của văn học.
Chẳng hạn, khi phân tích nghệ thuật tả tượng La Hán của
Huy Cận, phải chú ý đến giới hạn của chất liệu ngôn từ, để từ đó chỉ ra điểm
mạnh của tài năng Huy Cận.
Hay khi viết về sự thể hiện tư tưởng “chúng nó đã cầm
súng, mình phải cầm giáo” trong “Rừng xà
nu”, chỉ cần nêu được luận điểm: trong văn học, mọi tư tưởng dù lớn
lao sâu sắc đến đâu cũng phải hóa thân thành hình tượng nghệ thuật bão hòa cảm
xúc.
Viết về cách sử dụng chi tiết nghệ thuật của Nam Cao,
Thạch Lam, Tô Hoài, mà nêu được ý: Tài năng của một nhà văn lớn bao giờ cũng
được làm nên từ những chi tiết nhỏ… thì bài viết đã có chiều sâu lí luận hơn
nhiều.
9. Tăng cường tính chính xác và tư duy khoa học
Chỉ những người không hiểu gì về văn học và việc làm văn
mới cho là văn chương lai láng, mơ mộng, càng dài càng tốt, muốn viết thế nào
thì viết, thậm chí bịa ra văn.
Thực ra, một bài văn đạt điểm cao, là một bài viết kết hợp
được tư duy khoa học chặt chẽ (như của một nhà toán học) với năng lực cảm thụ
nghệ thuật tinh tế (như của một nhà phê bình tài hoa).
Văn học là một môn khoa học về nghệ thuật ngôn từ. Vì vậy,
cần kết hợp vừa tăng cường chất văn vừa tăng cường tính chính xác trong bài
văn, nhất là trong việc trích dẫn kiến thức và dẫn chứng. Lời răn của cụ Tú
Xương ngày trước vẫn còn nguyên ý nghĩa: “Văn chương nào phải là đơn thuốc/Chớ
có khuyên xằng, chết bỏ bu!”
Bên cạnh đó, việc hiểu rõ, nắm vững và sử dụng chính xác
các khái niệm, các thuật ngữ văn học cũng giúp tăng cường tính chính xác của
bài văn. Các em không nên sử dụng khái niệm, nếu như chưa hiểu rõ về nó.
Các em cần hiểu, phân biệt, và sử dụng chính xác các khái
niệm: nhân đạo, nhân văn, nhân bản, nhân ái. Các em nên tìm hiểu, nắm vững và
sử dụng thành thạo thêm các khái niệm: lãng mạn, hiện thực, tính dân tộc, tình
huống truyện, thể thơ lục bát, hình thức lẩy “Kiều”, lối thơ vắt dòng, giọng
điệu văn chương, nhân vật trữ tình, tính sử thi..., cũng như phân biệt chính
xác giữa tác giả lời nói với chủ thể lời nói, cảm hứng sáng tác và cảm hứng tư
tưởng, nhân vật trữ tình và nhân vật trong thơ trữ tình…
10. Xây dựng đoạn văn chặt chẽ và chuyển ý khéo léo
Khi đã có “bột” (hệ thống luận điểm hay
còn gọi là hệ thống ý trong bài văn), các em cần “gột” (diễn đạt) nó thành “hồ”
(bài văn). Mỗi ý lớn cần được triển khai thành nhiều ý nhỏ, có phân tích, giảng
giải, chứng minh, và được tổ chức thành một đoạn văn, sao cho khi các đoạn văn
kết hợp với nhau sẽ tạo thành một bài viết hoàn chỉnh, đáp ứng toàn diện yêu
cầu của đề bài.
Vì vậy, các em nên tự rèn luyện kĩ năng viết 1 ý thành
đoạn văn, dưới nhiều hình thức như quy nạp, diễn dịch, tổng - phân -
hợp… Sự kết hợp luân phiên của các đoạn văn với các hình thức khác nhau như
thế, sẽ tránh cho bài văn khỏi sự lặp lại nhàm chán, đơn điệu.
Cũng cần xác định mức độ trình bày đối với mỗi ý. Trong
bài văn đạt điểm cao, không phải mọi ý đều được trình bày với độ dài ngắn như
nhau. Trái lại, ý nào quan trọng, cần viết dài hơn, để triển khai kĩ lưỡng hơn;
ý nào phụ, có thể trình bày ngắn gọn, bằng cách lướt qua, hoặc nêu tóm tắt.
Khi hết một ý, chuyển sang ý khác, cần có câu chuyển ý
(chuyển đoạn). Câu chuyển ý rất quan trọng, đảm bảo cho ý văn liền mạch, thống
nhất và nhuần nhuyễn, giống như các khớp xương nối các phần cơ thể với nhau.
Câu chuyển ý có chức năng khép lại ý đã viết xong và mở ra
một ý mới, nên cần diễn đạt khéo léo.
Chẳng hạn, sau khi phân tích thân phận và cảnh ngộ khốn
khổ của Mị, để chuyển sang phân tích diễn biến tâm trạng và sức sống tiềm tàng
của Mị khi mùa xuân đến, có thể chuyển ý như sau:
“Một nghệ sĩ chân chính bao giờ cũng là một nhà nhân đạo
từ trong cốt tủy” (Sêkhốp). Tấm lòng nhân đạo khiến Tô Hoài không thể nhẫn tâm
dìm mãi cuộc đời Mị trong cái tăm tối, khốn cùng của một kiếp trâu, kiếp ngựa,
kiếp rùa…, mà còn thôi thúc nhà văn thiết tha hướng về phía ánh sáng, phía sự
sống để khơi lên niềm khát khao ham sống, ham hạnh phúc, tự do, và để khẳng
định sức sống tiềm tàng nơi tâm hồn Mị.
11. Dẫn chứng hợp lý, bình dẫn chứng tinh tế
Bài văn đạt điểm cao không chỉ cần đủ ý, với các đoạn văn
được xây dựng chặt chẽ, diễn đạt khéo léo…, mà còn cần có các dẫn chứng được
trích dẫn chính xác, tiêu biểu, có chọn lọc, giàu sức thuyết phục, góp phần làm
sáng tỏ và nổi bật hơn hệ thống ý của bài văn…
Không thể làm văn không có dẫn chứng, tuy vậy, không nên
lạm dụng dẫn chứng, mà phải sử dụng một cách hợp lý, có chừng mực.
Bài văn không phải là sự liệt kê các dẫn chứng, hay liệt
kê các chi tiết, hình ảnh từ tác phẩm. Cần tránh việc biến bài văn thành nơi kể
lại tác phẩm một cách dở hơn nhiều so với những gì tác giả từng viết trong tác
phẩm.
Trước khi nêu dẫn chứng, cần có lời dẫn, nghĩa là một lời
giới thiệu khéo léo về dẫn chứng. Lời dẫn này nên kết hợp với lời bình, với cảm
nhận của các em về dẫn chứng, để làm nổi bật ý của bài văn.
Chẳng hạn, có thể giới thiệu dẫn chứng như sau: Mị nhận ra
âm thanh tiếng sáo gọi bạn yêu khi tiếng sáo còn ở rất xa: “Đầu núi đã lấp ló
có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”, nhưng cũng có thể giới thiệu hay hơn,
khéo léo và tinh tế hơn khi viết: Khi tiếng sáo gọi bạn yêu “lấp ló” ở “đầu
núi” cũng là khi khát vọng tình yêu, hạnh phúc, tự do đã “lấp ló” nơi tâm hồn
Mị: “Đầu núi đã lấp ló có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”.
Cũng có thể phân tích và bình giảng sau khi đã trích dẫn
chứng, miễn là làm nổi bật được ý văn cần thể hiện. Năng lực tư duy và cảm thụ
văn học của người viết, sự tinh tế, sâu sắc và điểm số của bài văn phụ thuộc
rất nhiều vào việc phân tích chi tiết, hình ảnh và cảm nhận dẫn chứng của người
viết.
Khi bình về dẫn chứng “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một
miếng, bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”, tùy theo năng lực mà người làm văn có thể
chỉ ra 1, 2, hoặc 3, 4 ý nghĩa sau:
- Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm làm dâu, Mị có ý định
thắp sáng thêm căn phòng u tối của mình.
- Người con dâu khốn khổ ấy như đã lấy chính ánh sáng của
niềm khát khao ham sống, khát khao hạnh phúc tình yêu vừa bừng lên trong tâm
hồn mình để tiếp thêm ánh sáng cho ngọn đèn le lói ở góc phòng.
- Đó cũng là hành động của sự tự thức tỉnh, khát khao thắp
sáng cuộc đời mình.
- Nó gợi nhớ chi tiết nhân vật Tràng giơ cái chai dầu con
con lên khoe với tất cả niềm hãnh diện, ngay giữa những ngày tối sầm lại vì đói
khát trong truyện ngắn “Vợ nhặt”
của Kim Lân.
Hóa ra, ngay trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, những người
nông dân như Mị, như Tràng vẫn khát khao thắp lên ánh sáng của sự sống, của hi
vọng, của niềm tin.
12.
Tuân thủ nghiêm các nguyên tắc
Để đạt điểm cao, bài văn phải được trình bày sáng sủa,
sạch đẹp. Vì vậy, trong quá trình triển khai ý làm bài, các em nên trình bày
mỗi ý thành một đoạn văn, được phân biệt với nhau bởi các dấu chấm xuống dòng.
Khi xuống dòng, cũng nên viết chữ đầu tiên lùi vào 1/5 -
1/4 trang giấy, tính từ lề. Cách trình bày như thế vừa giúp bài văn sạch đẹp
hơn, gây được thiện cảm của người chấm, các ý trong bài nổi bật hơn, người chấm
không thể bỏ sót ý, nên bài văn có lợi hơn về điểm số.
Cần hết sức tránh việc dập xóa, để tránh cho bài làm không
bị xấu và bẩn. Trong trường hợp bất khả kháng, bắt buộc phải bỏ phần vừa viết,
cách tốt nhất và duy nhất là dùng thước kẻ gạch đè lên để bỏ đi, rồi viết tiếp.
Chỉ gạch một nét, với độ đậm mực vừa phải, không ấn bút vì dễ làm rách giấy,
hoặc làm xấu bài thi.
Các em tuyệt đối không được dùng bút xóa, vì dễ bị nghi là
đánh dấu bài. Cũng không nên gạch bằng tay, không nên dùng các móc ngoặc để
đánh dấu đoạn văn bỏ đi, và viết thêm chữ “sai” hay “bỏ” ở bên cạnh như các em
quen làm.
Diễn đạt là quá trình vô cùng quan trọng, sánh ngang với
việc tìm ý cho bài văn. Nếu “gột” không khéo, không đúng, thì dù “bột” đã được
chuẩn bị tốt đến đâu, cũng có nguy cơ trở thành “bánh đúc”, thậm chí “cám lợn”
chứ không phải thành “hồ” như mong muốn.
Không có ý, thì không có gì để viết, nhưng có ý đầy trong
đầu, mà không biết cách nói ra, thì ý dù hay và sâu sắc đến đâu cũng trở nên vô
nghĩa. Diễn đạt là quá trình “gột” để “bột” thành “hồ”, quá trình làm cho những
ý tưởng trừu tượng, lớn lao biến thành lời văn cụ thể, tràn đầy hình ảnh và cảm
xúc, nghĩa là biến bộ xương ý tưởng thành một cơ thể sống động, có da có thịt
,có sự sống, có linh hồn.
Do thói quen xấu và do không được uốn nắn, sửa chữa từ các
cấp dưới, nhiều thí sinh dự thi đại học vẫn viết sai chính tả, vẫn viết câu văn
què cụt, không có chủ ngữ, vị ngữ, hoặc nhầm lẫn giữa các thành phần câu, nghĩa
là chưa nói thông viết thạo tiếng Việt. Đây là lỗi thường bị trừ điểm rất nặng
trong các bài văn.
Cũng cần tránh các kiểu diễn đạt mập mờ, dễ gây hiểu nhầm
cho người đọc, kiểu “Chị Dậu bảo với
người nhà lí trưởng: Mày đánh chồng bà đi, bà cho mày xem. Rồi chị cho chúng nó
xem thật!”.
Vì vậy, trước hết, các em cần phải rèn luyện cho mình một
cách diễn đạt đúng, nghĩa là nói và viết đúng ngữ pháp. Nếu chưa giỏi diễn đạt,
hãy viết các câu văn ngắn, giản dị, ít thành phần câu, tránh cầu kì, rườm rà vì
dễ mắc lỗi ngữ pháp.
Khi đã diễn đạt đúng, mới tiến dần lên tập luyện để diễn
đạt hay hơn, khéo léo, tinh tế hơn. Kĩ năng diễn đạt này sẽ rất cần thiết cho
các em trong cuộc sống hàng ngày, trong quan hệ, giao tiếp, kể cả các giao dịch
kinh tế sau này.
Ngồi sau xe môtô của một chàng trai đang phóng rất nhanh
trên đường, một cô gái diễn đạt tầm thường sẽ nói: “Sao anh đi như thằng điên
thế?”, một cô gái diễn đạt khéo hơn có thể nói “Chậm thôi anh, đi nhanh thế, em
sợ lắm”, còn một cô gái luôn lo lắng cho chàng trai và diễn đạt tinh tế hơn sẽ
nói: “Chậm thôi anh, đi nhanh thế, nhỡ ra anh bị làm sao, thì em sống làm sao
nổi?”
Qua một ví dụ đời thường như thế, chắc các em đủ hiểu về
tầm quan trọng và hiệu quả của kĩ năng diễn đạt, cũng như ý nghĩa của môn văn
trong việc rèn luyện kĩ năng sống cho mỗi người. Giống như mọi ngành nghệ thuật
khác, văn học cũng hướng tới “phục vụ cho một nghệ thuật cao quý nhất: nghệ
thuật sống trên trái đất” (B.Brecht).
Để diễn đạt hay, cần sử dụng linh hoạt các kiểu câu khi
diễn đạt, sử dụng linh hoạt các hình ảnh, các phép tu từ, chuyển nghĩa để lời
văn có cảm xúc và chất văn. Lời văn phải trau chuốt, uyển chuyển, có giọng điệu
riêng. Nhiều khi chỉ thay đi vài chữ là câu văn đã hay hơn, sâu sắc hơn.
Chẳng hạn, thay cho cách viết “Bài thơ Các vị La Hán chùa Tây
phương được in trong tập Bài thơ cuộc đời của Huy Cận” , hãy viết “Bài thơ Các
vị La Hán chùa Tây phương là một trong những Bài thơ cuộc đời của Huy Cận”.
Cách viết thứ hai không chỉ nêu được xuất xứ mà còn đánh giá được tầm vóc và vị
trí của bài thơ đối với đời thơ Huy Cận.
Thay cho cách diễn đạt “Sức sống của Mị hồi sinh mạnh mẽ
khi mùa xuân đến”, hãy tìm một cách diễn đạt có hình ảnh và cảm xúc hơn, chẳng
hạn “Như một mầm cây ngủ quên lâu ngày trong đất, gặp hơi ấm của mùa xuân, sức
sống nơi tâm hồn Mị bỗng cựa mình tỉnh giấc và vươn mình trỗi dậy”.
Các em nên học cách diễn đạt của nhà phê bình Hoài Thanh
trong “Thi nhân Việt Nam”.
Nói về chất cổ điển của “Tràng giang”, ông viết: “Huy Cận đã khơi lại cái mạch
sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này”. Diễn đạt đúng ngữ pháp,
khéo léo, tinh tế, có hình ảnh và cảm xúc sẽ giúp bài văn có chất văn và đạt
điểm cao.
Chữ viết đẹp, rành mạch, sáng sủa, đúng chuẩn mực chính tả
cũng là một lợi thế để bài văn có điểm cao hơn. Các em nên rèn luyện chữ viết
của mình, nếu không được đẹp, cũng cần phải viết cho rõ ràng, ngay ngắn, đúng
chính tả.
Tuyệt đối không được viết tắt, viết thiếu nét, thiếu dấu,
viết hoa tự do (chỉ viết hoa tên riêng, hoặc sau khi chấm câu), viết ngọng (như
nhầm lẫn giữa l và n, x và s, ch và tr…).
Chỉ cần 5 lỗi chính tả hoặc 1 lỗi chính tả lặp lại 5 lần,
bài làm có thể đã bị trừ mất 0,5 điểm.
13. Phân bố thời gian làm bài hợp lý
Theo yêu cầu của đề thi đại học, cao đẳng, cũng như thi
tốt nghiệp hiện nay, trong thời gian 180 phút, các em phải viết 3 bài văn nhỏ,
đáp ứng được đầy đủ, toàn diện, sâu sắc và tinh tế yêu cầu của 3 câu hỏi trong
đề thi.
Trong thực tế, nhiều em có kiến thức tốt, vẫn không đủ
thời gian để làm bài. Vì vậy, việc sử dụng và phân bố thời gian làm bài thông
minh và hợp lý là điều có ý nghĩa rất quan trọng.
Các em nên tận dụng thời gian làm bài ngay khi nhận được
đề thi mà không nên chờ đến khi cỏ trống tính thời gian làm bài, đồng thời phải
tận dụng thời gian làm bài đến tận phút cuối cùng. Chỉ cần bỏ phí khoảng 10 phút,
có thể các em đã nhường lại cơ hội vào đại học cho người khác.
Các em cần hết sức lưu ý đến điểm số của từng câu (hoặc
từng phần) được ghi trong đề thi, để từ đó, chủ động phân chia thời lượng, giấy
mực... cho từng câu một cách hợp lí.
Tránh tình trạng đầu tư quá nhiều thời gian và sức lực cho
câu có điểm tối đa thấp. Cần tận dụng từng giây phút, tránh tình trạng không đủ
thời gian để làm bài.
Khi làm bài, câu I, thường 2 điểm, các em chỉ được làm
trong khoảng thời gian tối đa 36 phút, câu II, thường 5 điểm, làm trong khoảng
thời gian 90 phút, câu IIIa và IIIb, thường 3 điểm làm trong khoảng thời gian
54 phút.
Nhưng tôi khuyên các em chỉ nên làm câu I trong khoảng
thời gian 20 phút, vì câu này thường đơn giản, chỉ cần nắm chắc kiến thức cơ
bản là có thể giải quyết đầy đủ và đạt điểm tối đa. Số thời gian còn lại, nên
dành thêm cho câu II, vì trong thực tế, câu này thường khá khó và dài,
phần lớn thí sinh không thể làm trọn vẹn trong 90 phút.
Phần mở và kết bài cho từng câu cũng cần được viết trong
khoảng thời gian thật ngắn. Trong thực tế, nhiều thí sinh ngồi cắn bút đến 15 -
20 phút, thậm chí nhiều hơn, vẫn chưa viết xong mở bài, vậy thì đối với ngay cả
câu 5 điểm (thời gian cho phép làm bài là 90 phút), cũng làm sao đủ thời gian
để viết mở bài và kết luận?
Các em nên luyện tập để có thể mở bài, kết bài cho từng
câu trong khoảng thời gian từ 5 - 7 phút. Như thế mới có đủ thời gian để triển
khai ý sâu sắc và đầy đủ cho phần thân bài.
Cũng không nên viết nháp bài văn rồi chép lại, vì như thế
sẽ không bao giờ đủ thời gian. Các em chỉ nên vạch ra các ý chính thông qua các
gạch đầu dòng, hoặc theo hình nhánh cây, và cân nhắc trình tự sắp xếp các ý cho
chặt chẽ, rồi lựa chọn cách diễn đạt và viết ngay thành lời văn vào giấy thi.
Trong trường hợp có chỗ nào sai, nên dùng thước kẻ gạch đè
lên để bỏ đi, rồi viết tiếp, mà không nên thay giấy thi (nếu không phải là
những dòng đầu tiên của bài làm, hoặc của tờ giấy thi), vì việc điền lại các
thông tin cá nhân trên phách và chép lại phần bài đã làm sẽ mất rất nhiều thời
gian.
Nên dành khoảng 4 - 5 phút cuối cùng của 180 phút làm bài
thi, để đọc lại bài làm, rà soát các lỗi sai, nhất là lỗi chính tả, lỗi ngữ
pháp…, sau đó hãy nộp bài.
14. Rèn luyện để tăng tốc độ viết
Như các em đã thấy, dù cấu trúc như nhau, nhưng mức độ của
đề thi đại học khó hơn nhiều so với đề thi tốt nghiệp. Về cơ bản, bài văn thi
đại học có thể làm tương tự như bài thi tốt nghiệp, nhưng mức độ và chất lượng
phải cao hơn, kiến thức phải sâu hơn, tư duy chặt chẽ hơn và diễn đạt cũng phải
tinh tế, uyển chuyển hơn.
Mọi yêu cầu của đề đều cần giải quyết trong vòng 180 phút,
nên nhiều thí sinh không đủ thời gian để làm bài. Mặt khác, đề thi cũng ngày
một dài hơn.
Trước đây, câu 3 điểm (làm trong 54 phút), thường chỉ yêu
cầu bình giảng 4 dòng thơ, nhưng đề thi khối C, năm 2007, yêu cầu bình giảng
tới 10 dòng. Câu 3 điểm trong đề khối D, năm 2007, trước đây thường được cho
với yêu cầu 5 điểm (làm trong 90 phút). Vì vậy việc tăng tốc độ viết để có đủ
thời gian làm bài là điều rất cần thiết.
Những thí sinh viết nhanh, viết đẹp… rõ ràng có lợi thế
hơn. Các em nên luyện tập ngón tay và khuỷu tay, để tránh bị mỏi tay khi viết
bài, đồng thời luyện viết thường xuyên để viết nhanh, chữ viết rõ ràng, sạch
đẹp hơn.
Các em có thể lấy 1 đề văn thi đại học bất kì, trung thực
và nghiêm túc làm bài trong 180 phút, không dùng bất cứ tài liệu nào, tự
kiểm tra xem khả năng làm bài và tốc độ viết của mình đã hợp lí chưa, để có
phương án điều chỉnh.
Cần lưu ý rằng, điều kiện đầu tiên để tốc độ viết văn
nhanh hơn là các em phải luôn làm chủ kĩ năng và kiến thức, phải chuẩn bị sẵn
sàng và đầy đủ kiến thức trong đầu.
Trình bày những điều trên đây, chúng tôi hi vọng ít nhiều
giúp ích cho các em trong quá trình ôn tập và làm bài. Hãy luôn nhớ rằng trên
con đường thành công không có bước chân của kẻ lười biếng và “tất cả những gì
tốt đẹp nhất, chỉ có thể có được khi chúng ta chịu trả giá bằng một nỗi đau khổ
vĩ đại” (Côlin Măc Calâu).
Nếu kiên nhẫn rèn luyện, nỗ lực học tập một cách thông
minh và có phương pháp, chỉ cần một thời gian ngắn, chắc chắn các em sẽ có bài
văn đạt điểm cao trong kì thi tuyển sinh đại học, cao đẳng.
THS. PHẠM HỮU CƯỜNG