Vợ nhặt của
Kim Lân, nhìn từ tình huống
1) Xác định tình huống
truyện.
Câu hỏi của chúng ta
:"Toàn bộ truyện ngắn Vợ nhặt xoay quanh sự kiện nào ? hay sự kiện
nào đã bao trùm chi phối toàn bộ thiên truyện này ?" Sau khi lướt qua các
tình tiết chính của thiên truyện này ta dễ dàng thấy rằng hạt nhân của truyện
ngắn Vợ nhặt là một
cuộc hôn nhân kì lạ. Và đó chính là cái "tình thế nảy ra
truyện", cái tình huống của câu chuyện.
2. Phân tích tình huống
truyện
2.1. Diện mạo của tình
huống
Nói hôn nhân trong Vợ
nhặt kì lạ, ít nhất
vì ba lẽ. Một là, sự đảo lộn về giá trị : Tràng -
một gã trai nghèo khổ, thô kệch, lại là dân ngụ cư, lâu nay ế vợ, bỗng dưng
"nhặt" được vợ, mà lại là vợ theo không (khác nào từ "vô giá
trị" bỗng thành …"vô giá" !). Hai là, sự ngược đời : Tràng lấy vợ vào
lúc không ai lại đi lấy vợ - giữa những ngày nạn đói đang lăm le cướp đi mạng
sống của mỗi người. Ba là, nghịch lí : một đám cưới thiếu
tất cả mà lại như đủ cả (Chỉ cần làm một so sánh nhỏ với chương "Hạnh phúc của một tang gia" trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng cũng có thể thấy
ngay. Đám tang cụ Cố Tổ cực kì long trọng to tát, thừa thãi mọi hình thức, đồ
lễ và nghi lễ. Chỉ thiếu duy nhất một thứ, ấy là lòng xót thương dành cho người
quá cố. Mà thiếu điều này, thì xem như là thiếu tất cả. Còn cuộc hôn nhân này ?
Thì thiếu tất cả. Kể cả những lễ nghi tối thiểu nhất của một đám cưới. Thế
nhưng, nó lại có cái quan trọng nhất, cốt lõi nhất : sự thương yêu gắn bó
thực lòng. Mà đã có được điều này, thì những cái thiếu kia đều không còn đáng
kể, thậm chí đều trở nên vô nghĩa). Những điều này quyết định đến việc tổ chức
mạch chuyện và cả cấu tứ của thiên truyện nữa.
2.2. Diễn biến của
tình huống truyện
2.2.1. Diễn biến mạch
truyện
Không phải ngẫu nhiên mà
mạch chuyện là một chuỗi ngạc nhiên kế tiếp. Khi Tràng dẫn vợ về thì cả xóm ngụ
cư ngạc nhiên. Thoạt tiên là lũ trẻ. "Lũ
ranh" ấy bỗng nhiên mất hẳn đi một bạn chơi, khi có đứa chợt
nhận ra quan hệ của họ là "chông vợ
hài". Còn đám người lớn thì ngớ ra "không tin được dù đó
là sự thật". Khi đã tỏ, họ tò mò thì ít mà ái ngại nhiều hơn :"Giời đất này còn rước cái của nợ đời về".
Tiếp đó là bà cụ Tứ. Tràng lấy được vợ là điều bà đêm mong ngày tưởng, vậy mà
khi sự xảy đến, bà hoàn toàn không tin nổi - không tin vào mắt mình (ngỡ mình trông gà hoá cuốc), không tin
vào tai mình (quái, sao lại chào mình bằng
"u"). Song, đáng nói nhất vẫn là Tràng. Là"thủ
phạm" gây ra tất cả, mà vẫn không hết ngạc nhiên (chẳng những cứ đứng
"tây ngây" giữa nhà
tối hôm trước mà đến tận hôm sau, qua một đêm có vợ rồi nhưng "hắn cứ lơ lửng như người đi ra từ trong một giấc mơ").
Trong chuỗi ngạc nhiên ấy, ta đọc thấy những định nghĩa xót xa về người vợ : Vợ
là cái của nợ đời, vợ là gánh nặng phải đèo bòng... Có thể nói, chưa có ở đâu
giá trị của người vợ lại thấp kém, lại bèo bọt như hoàn cảnh này. Và cũng chưa
bao giờ, hạnh phúc lại có một nghĩa lí đáng sợ như ở đây : hạnh phúc là một mạo
hiểm, một nguy cơ ! Như vậy, tạo được tình huống này, tác phẩm đã tố cáo được
tội ác của Phát xít Nhật, kẻ đã gây ra nạn đói khủng khiếp, không chỉ cướp đi
sinh mệnh của mấy triệu người Việt Nam, mà còn đánh tụt giá người xuống hàng cỏ
rác bèo bọt. Mặt khác cũng lầm toát lên được niềm tin vào bản chất Người trong
con người : dù hoàn cảnh muốn biến Con Người thành Bèo Bọt, nhưng Con người vẫn
không chịu làm Bèo bọt mà vẫn kiên nhẫn làm Người. Nghĩa là một tình huống đem
lại tầm vóc nhân văn đáng nể cho tác phẩm.
2.2.2. Diễn biến
trong tình thế
2.2.2.1. Trước hết, đó là
tình huống đùa mà không đùa.
Hôn nhân là một chuyện hệ
trọng và thiêng liêng vào bậc nhất của đời sống nhân sinh. Ấy thế mà ở đây,
hoàn cảnh tai ác và cả con người nữa như muốn biến thành trò đùa - "Tràng chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai lần thế mà
thành chuyện". Nếu trước sau chỉ là một trò đùa, thì Con người
đã thành Bèo bọt. May thay, các nhân vật đã bước ra khỏi trò đùa kia với tư
cách Con người. Một diễn biến như thế, có thể thấy về bản chất là : Cảnh ngộ cứ
lăm le Bèo bọt hoá Con người, nhưng Con người đã vượt lên cả cảnh ngộ lẫn bản
thân mình.
Nhìn từ phía cô "vợ
nhặt", cái đói quay quắt ném cô vào một đời sống vất vưởng. Đời sống vất
vưởng nghiệt ngã đã biến cô thành một kẻ chanh chua, chao chát, cong cớn, trơ
tráo. Không chỉ làm biến dạng tính cách con người, nạn đói khủng khiếp còn như
một cơn lũ lớn đã cuốn phăng đi bao sinh mệnh. Chới với giữa dòng lũ, tiếng nói
thường trực nhất, tất nhiên, là tiếng nói của bản năng : cần phải sống đã, cần
phải bám ngay vào một cái gì có thể bám được. Và bản năng ham sống đã xui khiến
cô làm tất cả những gì có thể để thoát khỏi cái chết đang đe dọa từng giờ từng
phút. Thật may mắn, cô đã bám được vào một cái cọc, thoạt đầu có vẻ ơ hờ không
đâu, té ra lại vững vàng đáo để. Cái cọc ấy có tên là Tràng. Đầu đuôi, chưa
phải là bám vào Tràng, hay bám vào cái xe bò, mà là bám vào một cái rất không đâu,
rất mong manh vô hình, ấy là... câu hò không địa chỉ của Tràng. Để làm được kì
công ấy, cô đã biến một câu hò đùa vu vơ giữa chợ thành một lời hứa hẹn thật
("Muốn ăn cơm trắng mấy giò này, lại
đây mà đẩy xe bò với anh nì"). "Kì công" nhất là,
biến một lời rủ rê đùa thành... một lời cầu hôn chính thức ("Làm đếch gì đã có vợ. Nói thế chứ muốn về với tớ thì
ra sửa soạn các thứ rồi cùng về !). Có phải bản năng đã hoàn toàn
lấn át danh dự ? Nếu quả thực chỉ có thế, thì cô cũng chỉ là một thứ Bèo bọt,
không hơn không kém. Nhìn kĩ, bên trong chưa hẳn đã mất hết lòng tự trọng. Nếu
hoàn toàn không còn ý thức ấy, hẳn ở cô không thể có những cung cách như khi
nhìn thấy căn lều rách nát của mẹ con Tràng, cô đã nén một tiếng thở dài trong
ngực, không thể ngồi mớm bên giường ôm khư khư cái thúng trong
lòng, không thể đêm khuya cứ ngồi bần thần bất động trong khi Tràng đã sốt ruột
leo lên giường mong hưởng đêm tân hôn. Nhất là cái cung cách ứng xử vào sáng
hôm sau : không phải việc lao vào dọn dẹp cùng với mẹ chồng từ sáng sớm- việc
ấy nghĩ cũng bình thường !- mà là: khi nhận bát "chè khoán" từ tay bà cụ Tứ, mắt
thị chợt tối lại, sau đóvà ăn
một cách điềm nhiên. Thái độ và cung cách như thế chỉ có thể có ở
một người có ý thức sâu về cảnh ngộ mình cùng thân phận mình. Té ra, những chao
chát, chỏng lỏn, cong cớn kia chỉ là những du nhập từ ngoài vào, như một thứ vũ
khí để tự vệ, để đối phó với cảnh sống vất vưởng thôi. Bản tính sâu xa đến giờ
mới hiện ra, mà cơ chừng cuộc hôn nhân này mới làm hồi sinh thì phải ! Như thế,
nảy nở bởi một trò đùa, nhưng bên trong con người vốn dĩ là một cái mầm nghiêm
túc luôn khát sống và khát làm Người. Ta mới hiểu được vì sao, cô tự rơi vào
một hoàn cảnh rất dễ bị khinh rẻ, nhưng người đọc và cả người trong truyện
không thấy khinh mà chỉ thấy thương, rồi thấy quí, dù lắm lúc thấy...buồn cười.
Nhìn từ phía Tràng, tình
huống này không hẳn là lưỡng lự giữa sựđùa
cợt phất phơ và ý định nghiêm túc, mà ở chiều sâu, chính là phân vân giữa
một bên là sự khước từ của lòng vị kỉ một bên là sự
cưu mang của lòng vị tha (hay
một bên là nỗi lo sợ cái chết, một bên là khát
khao hạnh phúc, thì cũng thế). Sau những gì đã "gây ra"
bởi hàng loạt những trò đùa tào phào, Tràng có "chợn", nghĩa là thoáng lo sợ và ân
hận của kẻ trót đẩy trò đùa đi quá trớn. Nếu lúc bấy, Tràng bỏ của chạy lấy
người, thì về lí, chẳng ai trách được gã trai ấy. Nhưng tình người trong gã hẳn
là mất mát đi nhiều lắm. Thế thì Tràng cũng chẳng hơn thứ Bèo bọt là bao. Song,
Tràng đã "Chặc, kệ !". Có vẻ như một quyết định
không nghiêm túc, như phóng lao phải theo lao vậy. Đến đấy, cả người đọc
thừa thãi niềm tin nhất cũng chưa thể tin là rồi ra có thể chắc chắn. Dù ngẫm
cho cùng, họ đến với nhau, bề ngoài thì ngẫu nhiên, không đâu, mà bên trong lại
là tất nhiên: người này cần người kia để có một chỗ dựa mà qua thì đói kém,
còn người kia cũng cần đến người này để mà có vợ, để biết đến hạnh phúc làm
người (Nếu không "gặp cái nước này,
người ta mới lấy đến" Tràng, thì tình trạng ế vợ trường kì của
gã trai đây còn khuya mới đến hồi kết thúc !). Và cuối cùng, nằm ngoài mọi
tưởng tượng và ngờ vực, hai que củi trôi dạt ấy đã chụm vào nhau, đã nhen nhóm
lên thành bếp lửa. Sau cái tiếng "Chặc,
kệ!" đó, mọi tầm phơ tầm phào đã lập tức khép lại, nhường chỗ
hoàn toàn cho sự nghiêm trang. Hãy chú ý đến những gì Tràng làm ngay sau đó.
Còn chút tiền, Tràng đã dồn vào ba việc : mua cho vợ một cái thúng, ăn với nhau
một bữa cơm và mua một chai dầu. Hai việc đầu là thiết thực. Việc thứ ba xem
chừng xa xỉ, cứ như một thứ chơi sang, chơi ngông. Hoàn cảnh ngặt nghèo ấy,
không có đèn thắp, có chết đâu ! Nhưng chính cái việc ngỡ như xa xỉ kia lại nói
với ta rất nhiều về tấm lòng của Tràng. Thì ra, không phải lấy được vợ quá dễ
dàng thì Tràng cũng rẻ rúng hạnh phúc của mình. Nếu rẻ rúng, Tràng cũng chỉ là
Bèo bọt. Trái lại, Tràng rất trân trọng. "Vợ mới vợ miếc thì cũng phải sáng sủa một chút chứ chả nhẽ chưa tối đã
chui ngay vào". Cách nói có cái vẻ bỗ bã của một gã trai quê,
nhưng động cơ thì không thiếu cái nghiêm trang của một người giai tế tối tân
hôn. Hôm nay phải là một ngày khác hẳn. Phải là một sự kiện của đời mình. Ngày
mình có vợ kia mà - nhà cần phải sáng ! Mua chai dầu chính là nỗ lực để đàng
hoàng ở cái mức mình có thể có được vào lúc này. Kể từ khi ấy, họ gắn bó với
nhau chân thành và nghiêm trang như bất cứ đôi lứa nào trên cõi đời này. Chẳng
phải đấy là hình ảnh của Tình người, của tư cách Người trong con người ? Rõ
ràng, hoàn cảnh muốn biến con người thành bèo bọt nhưng con người quyết không
làm bèo bọt mà vẫn kiên nhẫn làm người.
2.2.2.2. Thứ hai là tình
thế đám cưới ở giữa đám ma. Thậm
chí, đám cưới nhỏ nhoi giữa một đám ma khổng lồ.
Là việc hai cá thể tự
nguyện gắn bó với nhau, lập nên một gia đình rồi sinh con đẻ cái, đám cưới được
coi như sự kiện khởi đầu một sự sống mới trong nhân gian. Còn đám ma lại là sự
kiện kết thúc một chu trình sống trên cõi đời này. Tình huống Vợ
nhặt, do đó, còn có thể gọi là sự
sống nảy sinh giữa cái chết. Có
thể Kim Lân chưa chắc đã ý thức thật đầy đủ về khía cạnh này. Nhưng ý nghĩa
khách quan của tác phẩm thì toát lên điều đó. Không phải ngẫu nhiên mà trong
thiên truyện, ta thấy nổi lên song hành hai cuộc giao tranh: Sự
sống với Cái chết và Ánh
sáng với Bóng tối.
Thật oái oăm, cuộc hôn nhân
hình thành một phần lớn là do Cái Chết dồn đuổi. Đôi trai gái là hiện thân của
Sự Sống. Khi dắt nhau về xóm ngụ cư, họ đi trong sự bao vây của cái chết. Cái
chết hiện ra với nhiều bộ mặt, nhiều biến thể : khi thì trong hình ảnh xác
những người chết đói nằm la liệt trên bãi chợ, khi thì ở bóng những người
đói xanh xám dật dờ như những bóng ma đằng sau gốc đa và gốc gạo, khi lại hiện
ra trong hình ảnh bầy quạ đen bu kín trên ngọn cây, chỉ chờ những người đói đổ
xuống là ùa tới moi gan rỉa thịt, khi lại hiện trong hình ảnh khói của những nhà
đốt đống rấm để xua mùi tử khí... Cái Chết truy đuổi rình rập quanh bước chân
của họ. Thậm chí, khi đôi trai gái sắp lên giường ngủ, nó vẫn chưa chịu buông
tha. Đúng lúc ấy, họ nghe thấy tiếng khóc hờ của những nhà mới có người chết tỉ
tê lọt qua kẽ vách. Nhưng, sự sống không bao giờ chán nản. Sáng hôm sau, tất cả
các thành viên trong gia đình ấy đã cùng lao vào một việc, một việc có thể nói
là không thiết thực, bởi không có một hiệu quả kinh tế trực tiếp gì : dọn dẹp
nhà cửa. Nhưng cái việc có vẻ chưa cần thiết một tí nào ấy lại nói với ta rất
nhiều về thái độ sống của họ. Họ không muốn tạm bợ, mà muốn đàng hoàng. Họ đang
chuẩn bị cho cuộc sống lâu dài. Họ bướng bỉnh tuyên chiến với nạn đói. Ở người
mẹ già nua, sự sống ngỡ như đã khô cạn đi, lại như bừng lên một sức sống mới.
Bà xăm xắn lao vào công việc, hay cười, hay nói và toàn nói về tương lai, tương
lai gần còn chưa hiện ra đã lại nghĩ đến những tương lai xa hơn nữa (Tràng
ạ, lúc nào có tiền mua lấy đôi gà. Tao tính cái đám đất đầu bếp kia nếu làm chuồng
gà thì rất tiện. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có ngay đàn gà cho mà xem).
Vậy đấy, Sự sống đâu có đầu hàng Cái chết ! Trái lại, Sự sống đang kiên nhẫn
vượt lên Cái chết.
Nhưng, tinh vi nhất vẫn là
cuộc giao tranh thứ hai : Ánh sáng với Bóng tối. Phần thắng cuối cùng thuộc về Ánh
sáng. Điều này hiện rõ ngay trong kết cấu. Có ngẫu nhiên không khi câu chuyện
mở ra lúc trời nhá nhem tối và kết thúc vào sáng hôm sau, khi mặt trời lên cao
bằng con sào? Và hệ thống tình tiết dọc theo mạch chuyện cũng không hẳn là ngẫu
nhiên. Trước khi đôi trai gái dắt nhau về, bao trùm lên xóm ngụ cư là một bầu
không khí âm u, ảm đạm bởi tử khí vây quanh cùng bao ánh mắt lo âu. Nhưng họ về
đến đâu ánh sáng theo về đến đó. Thoạt tiên là có một cái gì tươi mát thổi vào
đám người ngụ cư làm cho gương mặt hốc hác u tối của họ bỗng rạng sáng lên. Rồi
đêm ấy căn lều lâu nay bóng tối vẫn ngự trị của mẹ con bà cụ Tứ cũng sáng lên -
bằng ngọn đèn từ chai dầu của Tràng ? Không, sâu xa hơn, là bằng nguồn sống
bừng lên từ cuộc hôn nhân ấy. Sáng hôm sau, gương mặt lâu nay u ám bủng beo của
bà cụ Tứ cũng sáng lên. Cảnh vật bao quanh căn lều cũng sáng sủa quang đãng...
Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, chai dầu của Tràng giỏi lắm cũng chỉ xua đi được Bóng
tối trong cái căn lều nhỏ bé ấy thôi. Còn Bóng tối bao trùm lên toàn bộ thế
giới của câu chuyện thì ngọn đèn dầu kia làm sao xua tan nổi. Nó phải nhờ vào
một nguồn sáng khác lớn lao hơn, mãnh liệt hơn. Đó là nguồn sáng của lá cờ. Câu
chuyện được khép lại bằng hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng rực rỡ hiện lên trong tâm
trí của Tràng là nằm vào mạch ngầm tất yếu đó. Một kết thúc bằng Ánh sáng. Một
kết thúc lạc quan.
3. Ý nghĩa tư tưởng của
tình huống truyện
3.1. Quan niệm : Con người
dù có thế nào vẫn cứ là CON NGƯỜI : a) Vẫn khao khát vun vén hạnh phúc, b) Quyết
không làm bèo bọt mà kiên nhẫn và kiêu hãnh làm Người.
3.2. Sự sống chẳng bao giờ
chán nản, lúc nào nó cũng hướng ra phía trước và vươn ra ánh sáng. Thế là, nảy
sinh trên một mảnh đất mà Cái chết đang lan tràn, nhưng Sự sống quyết không
chán nản. Sự sống bao giờ cũng mạnh hơn Cái chết. Đó chính là bản tính tích cực
của Sự sống. Điều ấy chẳng phải là dư vị triết lí tiềm ẩn trong tình huống Vợ
nhặt, chỗ sâu xa nhất trong ý nghĩa nhân văn của tác phẩm này sao ?
Gọi Vợ nhặt là Bài
ca Sự sống, thiết tưởng cũng không phải một đề cao quá đáng.
Kết luận, từ những vấn đề lí thuyết và qua những phân tích thực
tế vào tác phẩm có thể thấy :
- Hạt nhân thể loại của
truyện ngắn là tình huống truyện.
- Tiếp cận một tác phẩm
truyện ngắn mà chưa chú ý đúng mức đến tình huống truyện thì xem như chưa thực
sự khám phá phần then chốt nhất, phần lõi cốt nhất của truyện ngắn.
- Vấn đề này cần được ứng
dụng rộng rãi hơn vào việc nghiên cứu, giảng dạy truyện ngắn nói chung và giảng
dạy truyện ngắn ở trường phổ thông nói riêng.
Hà nội, xuân Quí Mùi, TS. Chu Văn Sơn