Thứ Hai, 27 tháng 8, 2012

LINH TINH LUẬN: NGỤY QUÂN TỬ NHẠC BẤT QUẦN (BLOG TIỂU TRÚC)


1. Đôi nét về tiểu thuyết Tiếu ngạo giang hồ

Tiếu ngạo giang hồ là một tiểu thuyết võ hiệp nỗi tiếng của Kim Dung,lần đầu tiên được phát hành trên Minh báo vào năm 1967. Tiêu đề "Tiếu ngạo giang hồ" được đặt theo một bản nhạc cầm tiêu hợp tấu đóng vai trò trung tâm của tác phẩm. Tiếu ngạo giang hồ được coi là một trong những tiểu thuyết đặc sắc nhất của tác giả.
Nội dung bộ truyện xoay quanh những đề tài về tình bạn, tình yêu, sự dối trá, phản bội, những âm mưu và cả ham muốn quyền lực. Trung tâm của toàn bộ cốt truyện là nhân vật chính Lệnh Hồ Xung, đại đệ tử của chưởng môn phái Hoa Sơn Nhạc Bất Quần. Xuyên suốt câu chuyện, người đọc được dẫn dắt theo hành trình trở thành một kiếm khách lẫy lừng của chàng lãng tử này, đồng thời trải nghiệm những chứng kiến của Lệnh Hồ Xung đối với nhiều âm mưu tranh quyền đoạt vị trên giang hồ.
Các diễn biến được phát triển dựa trên một bí kíp kiếm pháp Tịch tà kiếm pháp và sự liên hệ giữa các nhân vật với bí kíp đó. Theo lời đồn đại trên giang hồ, trong gia đình nhà họ Lâm có một pho kiếm phổ chép tay tên gọi "Tịch tà kiếm pháp", người luyện được kiếm pháp này có thể sở hữu tốc độ như điện chớp, võ công làm mưa làm gió chốn võ lâm. Nhiều người thực sự thèm khát có được nó, trong đó có những nhân vật tiếng tăm trên giang hồ, như Tả Lãnh Thiền chưởng môn phái Tung Sơn, minh chủ Ngũ Nhạc, Nhạc Bất Quần chưởng môn phái Hoa Sơn, Dư Thương Hải chưởng môn phái Thanh Thành hay Mộc Cao Phong, Lao Đức Nặc... Chính từ đây đã nảy sinh bao âm mưu, bất hòa, tranh chấp hòng dành giật pho bí kíp này, xưng bá võ lâm.
Tiếu ngạo giang hồ là tên bản nhạc cầm tiêu hợp tấu do Lưu Chính Phong phái Hành Sơn và Khúc Dương của Nhật Nguyệt thần giáo cùng nhau sáng tác. Hai người kết bạn tri kỷ, Lưu Chính Phong định ở ẩn để cùng Khúc Dương tiêu dao nhưng đã bị phái Tung Sơn ngăn trở, giết chết cả gia đình và đánh cả hai trọng thương. Bản nhạc là sự kết hợp những đối cực ( bi và hùng, u uẩn mà cao khiết, trầm và bổng,  "nhạc" có "người", trong "người" có "nhạc".
Trước khi chết, cả hai đã cùng nhau chơi lần cuối bản nhạc này, sau đó khẩn cầu Lệnh Hồ Xung lưu truyền hậu thế bản nhạc này, rồi cùng nhau chết ở núi Hành Sơn. Cũng đồng thời, ở núi Hành Sơn, vợ chồng Lâm Chấn Nam trước khi chết đã nhờ Lệnh Hồ Xung căn dặn Lâm Bình Chi không luyện tập bí kíp Tịch tà kiếm pháp mà tổ tiên đã truyền lại.
Những tranh đoạt của võ lâm về bí kíp võ công, về quyền lực, sự đấu tranh chính - tà đã dần hé lộ ra những bộ mặt thật đáng ghê tởm của những kẻ tự cho mình là danh môn chính phái với vẻ bề ngoài đạo mạo, mở miệng là thuyết giảng đạo lí. Tiêu biểu cho những bộ mặt “khẩu phật tâm xà” chính là chưởng môn nhân của phái Hoa Sơn, sư phụ của Lệnh Hồ Xung, “Quân tử kiếm” Nhạc Bất Quần. 

2. Luận về quân tử và ngụy quân tử

Theo Khổng Tử trong Luận ngữ có đề cập đến ba hạng người: Thứ nhất, đó là thánh nhân; thứ hai, quân tử; và cuối cùng, những kẻ tiểu nhân. Nghĩa là Khổng Tử không hề đề cập đến loại người “ngụy quân tử”.
Ngụyở đây không có nghĩa là không phải mà nó mang nghĩa là giả tạo, ngụy tạo. Ngụy quân tử có nghĩa là giả vờ giống như quân tử.
Nếu hạng tiểu nhân là những kẻ ti tiện, không có nhân cách, vị thân, tham tàn độc ác,... thì ngụy quân tử xét về bản chất vẫn như vậy nhưng lại được che đậy bởi một vỏ bọc khá kín kẽ, dễ làm người khác lầm tưởng là chân quân tử.
Nếu xét về tài trí, tiểu nhân thua xa ngụy quân tử nhưng ngay cả chân quân tử cũng không thể bằng được hạng này. Bởi để làm một ngụy quân tử, nghĩa là người đó phải hiểu cặn kẽ, chính xác thế nào là quân tử thì mới tạo nên một vỏ bọc hoàn hảo được. Vậy có thể kết luận, ngụy quân tử là một kẻ có tài nhưng đầy dã tâm.
Đọc tiếu ngạo giang hồ, độc giả có thể nhận ra ngay những chân tiểu nhân như chưởng môn phái Thanh Thành Dư Thương Hải, chưởng môn phái Tung Sơn, Minh chủ Ngũ nhạc kiếm phái Tả Lãnh Thiền,... nhưng khó ai có thể nhận ra được bộ mặt thật của “Quân tử kiếm” Nhạc Bất Quần.

3. Ngụy quân tử Nhạc Bất Quần

Truyện miêu tả họ Nhạc xuất hiện lần đầu tiên là một thư sinh mặc áo bào xanh, tay phe phẩy quạt lông (trông giống Gia Cát Lượng), trạc khoảng ngoài 40 tuổi mặc dù lúc đó đã ngoài 60.
Tên "Nhạc Bất Quần" nguyên nghĩa là "không chơi với ai" nhưng họ Nhạc lại có rất nhiều bạn bè.
Nhạc Bất Quần tự nhận là dòng dõi Nhạc Phi đời Tống.

3.1. Thủ đoạn chiếm đoạt Tịch tà kiếm phổ

Nhà họ Lâm ở Phúc Kiến nổi tiếng với kiếm pháp Tịch tà của ông tổ Lâm Viễn Đồ. Giang hồ cả trăm năm dậy sóng vì pho võ công ấy. Những kẻ tiểu nhân thèm muốn bộ kiếm pháp ấy đã đành, đằng này những kẻ tự xưng danh môn chính phái cũng nhỏ dãi thèm thuồng.
Dư Thương Hải là kẻ đầu tiên bộc lộ lòng tham. Hắn lấy cớ trả thù cho con trai mà giết chết cả nhà họ Lâm, bắt vợ chồng Lâm Chấn Nam để tra hỏi Tịch tà kiếm pháp.
Nhưng Quân tử kiếm họ Nhạc cũng không tốt đẹp gì hơn. Họ Nhạc sai đại đồ đệ Lệnh Hồ Xung và con gái Nhạc Linh San đến Phúc Kiến mở quán rượu, lấy danh nghĩa theo dõi động tĩnh của ma giáo nhưng thực chất là nghe động tĩnh về Tịch tà kiếm pháp. Trước sau gì Dư Thương Hải cũng tiêu diệt Phước Oai tiêu cục nhưng hành động của Nhạc Bất Quần khiến Dư Thương hải ra tay sớm hơn. Đó là chưa kể nguyên nhân Lâm gia diệt môn – hay là cớ để tiêu diệt Phước Oai tiêu cục của Dư Thương Hải – chính là do Lâm Bình Chi vì cứu con gái Nhạc Bất Quần mà giết chết con trai Dư Thương Hải.
Sau khi Lâm gia bị diệt môn, tông tích của Tịch tà kiếm phổ vẫn không thấy đâu, dưới bàn tay đạo diễn của Nhạc Bất Quần, Lâm Bình Chi trở thành đồ đệ Hoa Sơn. Việc làm này của Nhạc Bất Quần có hai mục đích:
Thứ nhất, thông qua Lâm Bình Chi có thể tìm được pho võ công thượng thừa Tịch tà kiếm phổ.
Thứ hai, sau khi chiếm được kiếm phổ có thể dễ dàng tìm cách tiêu diệt mầm họa Lâm Bình Chi – bởi Lâm Bình Chi lúc ấy cũng như gà đã ở trong chuồng.
Âm mưu đã có sẵn, nhưng Nhạc Bất Quần vẫn rất giỏi che đậy khiến cho giang hồ nghĩ rằng vị Quân tử kiếm này nhân nghĩa, thương Lâm Bình Chi côi cút mà nhận về nuôi dạy.

3.1.1. Các bước chiếm đoạt Tịch tà kiếm phổ

Đã là tiểu nhân, việc sử dụng thủ đoạn để đạt mục đích cũng là thường. Nhạc Bất Quần không những sử dụng thủ đoạn để đạt lấy mục đích mà còn dùng chính con gái ruột của mình để làm công cụ.
Nhạc Linh San và Lệnh Hồ Sung vốn là đôi thanh mai trúc mã và đã được chính họ Nhạc hứa hôn. Thế nhưng chỉ vìTịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm, Nhạc Bất Quần sẵn sàng làm kẻ chia loan rẻ thúy.
Việc thâu nhận Lâm Bình Chi đã khiến giang hồ đàm tiếu nhưng vị “Quân tử kiếm” ấy vẫn không hề màn đến, bởi vin vào cớ “cây ngay không sợ chết đứng”. Nhạc Bất Quần không đơn giản như những gì giang hồ đồn đại, nghĩa là không giống như Mộc Cao Phong ép buộc Lâm Bình Chi nói ra kiếm phổ. Nhạc Bất Quần chỉ nhìn sơ qua là biết ngay kiếm pháp tầm thường của Lâm Bình Chi sử dụng không thể là võ công thượng thừa trong truyền thuyết. Thế nên họ Nhạc mới cần dụng mưu để tìm kiếm.
Thủ đoạn của Nhạc Bất Quần trong việc tìm kiếm Tịch tà kiếm phổ có thể tóm lược trong các bước sau:
Bước thứ nhất, biến Lâm Bình Chi thành người nhà. Để đạt được mục đích này, hẳn nhiên họ Nhạc sẽ phải gả đứa con gái duy nhất cho Lâm Bình Chi. Việc này cực khó, bởi để giữ cái vỏ bọc quân tử của mình, Nhạc Bất Quần phải thoải mãn ít nhất ba điều kiện trong việc làm này:
Một,Nhạc Linh San phải tự nguyện rời bỏ lệnh Hồ Xung để đến với Lâm Bình Chi. (Lâm Bình Chi vốn đã thương thầm Nhạc Linh San từ lâu).
Hai,phải làm cho Ninh nữ hiệp – Nhạc phu nhân – đồng ý hủy bỏ hôn ước với Lệnh Hồ Sung.
Ba,phải loại bỏ được Lệnh Hồ Xung mà không gây ra tranh chấp xung đột với Lâm Bình Chi.
Để thực hiện được bước thứ nhất này, Nhạc Bất Quần chỉ cần hoàn thành được điều kiện đàu tiên là xong.Ninh nữ hiệp sẽ không làm trái ý của con gái dù bà vẫn xem Lệnh Hồ Xung như con. Còn phần Lệnh Hồ Xung, Nhạc Bất Quần đã sử dụng một cao chiêu: lấy cớ gã đồ đệ gàn rỡ, kết giao mới ma giáo, Nhạc Bất Quần đã đày anh chàng Lệnh Hồ lên vách núi Tư Quá. Vậy là xong hai mối lo.
Phần còn lại, Nhạc Bất Quần giao cho Nhạc Linh San dạy võ nghệ cho tiểu sư đệ Lâm Bình Chi. Một thiếu nữ vừa mới mười tám, tình yêu chưa sâu đậm, ngày ngày lại ở cạnh một thiếu niên cũng mười tám, đôi mươi, có là thánh mới không nảy sinh tình cảm. Nhạc Bất Quần đày Lệnh Hồ Xung đi đã tạo cơ hội cho “lửa gần rơm” và việc “cháy” là vấn đề thời gian.
Quả nhiên Nhạc Bất Quần đạt được mục đích này, không những sẽ biến Lâm Bình Chi thành người nhà mà mọi việc làm của họ Lâm đều không thể lọt ngoài tầm mắt của Nhạc Bất Quần. Họ Nhạc dùng chính con gái của mình để làm công cụ chiêu dụ Lâm Bình Chi và biến chính con đẻ thành một gián điệp.
 Thật là một cao thủ!
Bước thứ hai, xuôi theo thời thế.Đó là khi Tả Lãnh Thiền khơi dậy cuộc chiến giữa hai phái Kiếm Tông và Khí Tông của Hoa Sơn, Nhạc Bất Quần đưa đệ tử xuôi về phương Nam để tránh tranh đấu.

3.1.2. Tránh tranh đấu hay chuẩn bị cho một cuộc tranh đấu?

Nhạc Bất Quần thể hiện một con người đầy mưu lược khi nhận ra âm mưu của Tả Lãnh Thiền – giấc mộng bá chủ võ lâm. Họ Nhạc đã tương kế tựu kế làm cho chuyến đi về vùng Phúc Kiến – nơi chắc chắn có manh mối tìm ra Tịch tà kiếm phổ - một cách danh chính ngôn thuận.
Nhạc Bất Quần ra đi cũng nhằm âm mưu khiến cho họ Tả coi thường, không đề phòng đến phái Hoa Sơn trong âm mưu riêng. Chứng tỏ rằng trí tuệ của họ Nhạc luôn cao hơn họ Tả một bậc trong cuộc thư hùng giữa hai con sói này.
Đối với hạng dùng thủ đoạn cụ thể như họ Tả thì dễ dàng nhận ra dù hắn luôn giấu mặt. Họ Nhạc lại núp trong vỏ bọc quá hoàn hảo khiến cho giang hồ ít người nhận thấy bộ mặt thật. Kể cả Định Nhàn sư thái của phái Hằng Sơn cũng nhầm.
Họ Nhạc lừa dối cả người đầu gối tay ấp với y mọi chuyện. Ninh nữ hiệp cũng chỉ là một quân cờ để họ Nhạc tìm kiếm quyền lực.
Phải nói họ Nhạc đã nhìn được thời thế và đã vận dụng thời thế một cách đầy biến ảo để đạt mục đích.
Đến đây, họ Nhạc thực hiện bước tiếp theo của kế hoạch chiếm đoạt Tịch tà kiếm phổ.
Bước thứ ba, dụng kế “bọ ngựa bắt ve”.
Cuối cùng đôi nhân tình Lâm Bình Chi và Nhạc Linh San cũng tìm được bí kíp Tịch tà kiếm phổ ở ngôi nhà cũ họ Lâm tại Phúc Kiến. Ngay lập tức có hai đại cao thủ của phái Tung Sơn xuất hiện cướp đi mất. Nhưng Lệnh Hồ Xung có vô tình có mặt đã đánh bại hai đại cao thủ phái Tung Sơn, cướp lại Tịch Tà kiếm phổ, sau đó chàng ngất đi.
Cả Lâm Bình Chi – Nhạc Linh San, hai đại cao thủ Tung Sơn và cả Lệnh Hồ Xung đều không biết đang có một ánh mắt dõi theo đằng sau tất cả. Họ Nhạc đã đợi cho cục diện xong xuôi và rồi nhẹ nhàng lấy đi Tịch tà kiếm phổ.
Nhạc Bất Quần đã dày công sắp xếp, cuối cùng cũng đạt được mục đích. Quả là không uổng khi dùng con gái làm công cụ cho thủ đoạn.

3.2. Thủ đoạn đối với Lệnh Hồ Xung

Nhạc Bất Quần đối với Lệnh Hồ Xung trên danh nghĩa là sư phụ nhưng tình cảm phải nói như cha con. Thế nhưng vì sự nhỏ nhen, ích kỉ của mình, họ Nhạc đã hết lần này đến lần khác đổ vấy cho Lệnh Hồ Xung.
Lần đầu tiêncó thể thấy rõ, đó là việc vợ chồng Lâm Chấn Nam chết khi chỉ có Lệnh Hồ Xung ở cạnh. Họ Nhạc đã nghi ngờ đến việc đệ tử mình có lòng tham chiếm lấy Tịch tà kiếm phổ. Nhạc Bất Quần nghĩ rằng đệ tử gã cũng như gã.
Lần thứ haichính là việc phạt Lệnh Hồ Xung lên Tư Quá Nhai sám hối về việc kết giao với ma giáo. Thực chất của việc này, như đã nói trên, là nhằm chia rẽ Lệnh Hồ Xung với Nhạc Linh San để tiện bề hành động việc đoạt Tịch tà kiếm phổ.
Lần thứ ba, Nhạc Bất Quần cho rằng Lệnh Hồ Xung đã giết chết đồng môn Lục Hầu, chiếm Tử hà bí kíp, từ đó tỏ ra lạnh nhạt với chàng.
Lần thứ tư, họ Nhạc đã không bảo vệ đệ tử khi có người đổ lỗi cho Lệnh Hồ Xung lấy cắp Tịch tà kiếm phổ. Nhạc Bất Quần vẫn nghi ngờ nhạc phổ Tiếu ngạo giang hồ mà Lệnh Hồ Xung vẫn giữ là kiếm phổ.
Lần thứ năm, sau sự kiện quần hùng tổ chức chữa bệnh cho Lệnh Hồ Xung trên đồi Ngũ Bá, họ Nhạc đã chớp lấy ngay cơ hội ấy để đuổi Lệnh Hồ Xung ra khỏi Hoa Sơn.
Những ngày Lệnh Hồ Xung ở Hoa Sơn, kể từ lúc Lâm Bình Chi được thu nhận, Nhạc Bất Quần đã giở thủ đoạn của mình ra nhằm hai mục đích lớn.Một là để tìm cách chiếm đoạt Tịch tà kiếm phổ; hai là ganh tị với kiếm pháp tinh diệu mà Lệnh Hồ Xung sử dụng đánh bại các cao thủ ở miếu Dược Vương. Biết đâu được họ Nhạc lại không nghĩ kiếm pháp tuyệt diệu Độc cô cửu kiếm chính là Tịch tà kiếm pháp. Có thể nói, việc Lệnh Hồ Xung sở hữu võ công cao hơn cả sư phụ chính là nguyên nhân chính để họ Nhạc trục xuất chàng ra khỏi sư môn.
Không dừng lại ở đó, bản chất của một tên tiểu nhân bỉ ổi trong lốt “quân tử kiếm” của họ Nhạc thể hiện rõ khi có hành động gắp lửa bỏ tay người. Chính Nhạc Bất Quần mới là kẻ cướp đoạt Tịch tà kiếm phổ ở ngôi nhà cũ nhưng lại đổ vạ cho Lệnh Hồ Xung. Nhạc Bất Quần không từ một thủ đoạn nào để đạt mục đích, kể cả việc lấy những người thân cận ra làm công cụ.

3.3. Thủ đoạn xưng bá võ lâm

Nhạc Bất Quần và Tả Lãnh Thiền tuy hành động khác nhau nhưng mục đích hoàn toàn giống nhau. Cả hai đều muốn đứng đầuNgũ Nhạc kiếm phái, muốn xưng bá võ lâm, duy ngã độc tôn.
Họ Nhạc là người có trí. Nếu đối đầu với Tung Sơn thì hoàn toàn không có lợi bởi xét về võ công hay thực lực, Nhạc Bất Quần chưa phải là đối thủ của tả Lãnh Thiền. Bởi thế nên mục tiêu hàng đầu của Nhạc Bất Quần phải luyện được Tịch tà kiếm pháp, chỉ cần bấy nhiêu là họ Nhạc tin tưởng có thể xưng bá võ lâm.
Họ Nhạc đã lấy được Tịch tà kiếm phổ và đã không ngần ngại “vung đao tự hoạn”. Nhạc Bất Quần chưa bao giờ nghĩ đến vợ, đến con, hắn trở thành kẻ bán nam bán nữ mặc cho vợ con vẫn còn đấy.
Việc đầu tiên là luyện võ công vô địch, Nhạc Bất Quần bắt đầu tiến hành việc thứ hai.
Công việc thứ hai họ Nhạc cần làm chính là hợp nhất Ngũ Nhạc thành một phái và chiếm lấy ngôi chưởng môn. Công việc hợp nhất Ngũ Nhạc đã được tả Lãnh Thiền gấp rút chuẩn bị, việc của họ Nhạc chỉ là thúc đẩy công cuộc ấy nhanh hơn mà thôi.
Để đạt mực đích, họ Nhạc không gì là không làm. Nhạc Bất Quần đã ra tay ám toán Định Nhàn và Định Dật của phái Hằng Sơn vì hai vị sư thái phản đối kế hoạch hợp nhất Ngũ Nhạc của Tả Lãnh Thiền.
Nhạc Bất Quần một lần nữa lợi dụng địa vị của mình - sư phự - để khiến Lệnh Hồ Xung mắc mưu đồng ý hợp nhấtNgũ Nhạc trong đại hội trên Tung Sơn.
Và cũng tại Tung Sơn, trong cuộc tỉ võ đoạt soái, Nhạc Bất Quần đã tự hiện nguyên hình là một tên tiểu nhân vỉ ổi khi dùng kim châm đâm mù mắt Tả Lãnh Thiền trước mắt quân hùng thiên hạ. Võ công họ Nhạc được nhận ra là cùng nguồn gốc với Hoa bảo điển, sau đó Lâm Bình Chi (bản sao hoàn hảo của họ Nhạc) đã xác nhận đó chính là Tịch tà kiếm phổ khiến cho vỏ bọc của họ Nhạc hoàn toàn mắt giá trị, chưa kể đến việc anh hùng thiên hạ đều biết âm mưu muốn đứng đầu Ngũ Nhạc của gã.

4. Kết cục của Nhạc Bất Quần

Phong Thanh Dương khi truyền thụ Độc cô cửu kiếm cho Lệnh Hồ Xung đã nói về đạo lí trong kiếm thuật: Bất cứ chiêu thức nào được sử ra sẽ có cách phá giải. Đã là chiêu thức tất có sơ hở. Vấn đề là ai nhìn ra được sơ hở trong chiêu số của đối thủ sẽ  là người chiến thắng.
Suy từ đạo lí trong võ thuật ấy ra với cuộc đời, có thể hiểu rằng: Trừ khi ta không làm những việc khuất tất thì thôi. Còn nếu đã làm thì tất để lại dấu vết, tất có người nhìn ra bộ mặt thật cho dù bộ mặt ấy có giấu dưới vỏ bọc kín kẽ như thế nào đi nữa. Và sẽ trả giá cho việc xấu đã làm, không sớm thì muộn.
Họ Nhạc tưởng rằng mọi hành động của mình có thể qua mặt được tất cả nhưng gã đã nhầm. Lâm Bình Chi vì mục đích trả thù đã trở thành một bản sao hoàn hảo của họ Nhạc. Và chính bọn chúng đã tự vạch mặt nhau.
Nhạc Bất Quần dùng con gái để làm mồi nhử để đoạt Tịch tà kiếm phổ thì Lâm Bình Chi cũng dùng chính người thiếu nữ tội nghiệp ấy để che mắt họ Nhạc. Dù đã vung đao tự hoạn, Lâm Bình Chi vẫn cưới Nhạc Linh San, vẫn tỏ ra là người đạo mạo như “nhạc phụ” của hắn. Cho đến lúc trên Tung Sơn, chính Lâm Bình Chi đã vạch bộ mặt giả dối của Nhạc Bất Quần và của chính bản thân khi đọc câu đầu tiên trong Tịch tà kiếm phổ: “Muốn luyện kiếm pháp này, phải vung đao tự hoạn trước!”.
Họ Nhạc dùng con gái làm quân cờ, ép phu nhân phải chết thì họ Lâm đã một kiếm kết thúc cuộc đời Nhạc Linh San để làm quà ra mắt Tả Lãnh Thiền.
Thật là đáng ghê tởm cho những tên “ngụy quân tử”. Và cũng thật tội nghiệp cho những người không nhận ra được chân giá trị của hạng người ấy để rồi phải ngậm ngùi ấm ức.
Bản chất là cái không bao giờ thay đổi. Khi đã lộ diện là một tên tiểu nhân, họ Nhạc đã không ngần ngại bức chết vợ, dồn Lệnh Hồ Xung vào chỗ chết.
Lòng tham không đáy và thủ đoạn vô biên, họ Nhạc nhiều lần muốn giết Lệnh Hồ Xung nhưng đều bị đánh bại bởiĐộc cô cửu kiếm và phải uống Tam thi não thần đan của Nhậm Doanh Doanh.
Họ Nhạc là con người của thủ đoạn. Dù đã không còn là người hoàn chỉnh, đã uống đọc dược nhưng họ Nhạc vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu xưng bá võ lâm của mình. Họ Nhạc đã tìm cách mượn tay Tả Lãnh Thiền – Lâm Bình Chi tiêu diệt cao thủ các phái trong sơn động, trong đó có cả Lệnh Hồ Xung. Sự việc bất thành, họ Nhạc lại ám toán Lệnh Hồ Xung, lần này hắn thành công nhưng cũng chính lúc đó, gã bị ni cô Nghi Lâm của phái Hằng Sơn kết liễu số phận của một tên đại gian đại ác.
Phàm là người sống ở trên đời, nên sống thật với bản chất của mình. Dù có che giấu tài giỏi đến mấy rồi có lúc bản chất cũng bị phát hiện. Đọc Tiếu ngạo giang hồ, độc giả có thể có đôi chút cảm tình với tên đại dâm tặc Điền Bá Quang hay nhưng người trong ma giáo – không điều ác nào là không làm – bởi những kẻ ấy sống với đúng bản chất của mình. Còn những như Tả Lãnh Thiền -kẻ tiểu nhân giấu mặt; Nhạc Bất Quần – ngụy quân tử;... thì ai cũng cảm thấy căm tức.
Sống trên đời cứ như nước chảy mây trôi thì hơn, tranh tranh đấu đấu để làm gì? Đời người có là bao.


**************************

CHÂN DUNG NHẠC BẤT QUẦN (VŨ ĐỨC SAO BIỂN)


Nhạc Bất Quần là một nhân vật lớn trong bộ tiểu thuyết Tiếu ngạo giang hồ của nhà văn Kim Dung. Nguyên Trung Hoa có năm ngọn núi (ngũ nhạc) nổi tiếng: Tung Sơn, Thái Sơn, Hằng Sơn, Hành Sơn và Hoa Sơn, mỗi ngọn núi có một kiếm phái. Nhạc Bất Quần là chưởng môn nhân phái Hoa Sơn, có ngoại hiệu là Quân tử kiếm.
Về ngoại hình, Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần là một "thư sinh có năm chòm râu dài, mặt đẹp như mặt ngọc, chính khí hiên ngang khiến người phải đem lòng ngưỡng mộ". Con người ấy đã trên sáu mươi tuổi nhưng nhờ tu luyện nội công nên nhìn qua, chỉ mới như cỡ bốn mươi. Ngoại hiệu của y là Quân tử kiếm cho nên không bao giờ đánh lén, đánh sau lưng người khác, ăn nói mực thước, không bao giờ lên tiếng tranh biện với ai. Ngược với cái tên Nhạc Bất Quần (không chơi với ai), y kết giao với rất nhiều bạn hào sĩ giang hồ chính phái.

Về tài năng, con người ấy là sư tôn một danh môn, có môn Tử hà công thâm hậu, sáng lập ra một Hoa Sơn kiếm pháp lấy nội công làm căn cơ, học và thấm nhuần những tư tưởng của người quân tử trong triết học đạo Nho, trở thành biểu tượng đẹp đẽ của chính phái, ghét tà phái và bọn tàn ác như kẻ cừu thù. Mỗi khi Nhạc Bất Quần xuất hiện trong phần đầu của Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung thường dùng hai chữ "tiên sinh" để ca ngợi Nhạc Bất Quần.

Thế nhưng, toàn bộ những hào quang trên đây chỉ là những điều trá nguỵ, giả tạo. Từng bước, từng bước một, Kim Dung đã lột mặt nạ của Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần, chỉ ra cho chúng ta thấy tính cách tàn bạo, thủ đoạn độc ác, âm mưu thâm hiểm của nhân vật này. Kim Dung xây dựng y như một hình mẫu "ngụy quân tử", loại người nguy hiểm và khó đối phó hơn cả "chân tiểu nhân". Tôi đã đọc 12 bộ tiểu thuyết của Kim Dung và thật sự kinh sợ nhân vậy nguỵ - Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần. Những âm mưu, thủ đoạn của Nhạc Bất Quần vượt xa những tư duy thông minh của những cái đầu thông tuệ nhất.

Nắm được nguồn tin phái Thanh Thành của Dư Thương Hải sắp tấn công Phước Oai tiêu cục ở Phúc Châu, Nhạc Bất Quần lẳng lặng cho nhị đệ tử Lao Đức Nặc dẫn con gái mình là Nhạc Linh San xuống Phúc Châu mở một quán rượu để theo dõi tình hình. Biết nhị đệ tử Lao Đức Nặc là đệ tử của Tả Lãnh Thiền chưởng môn phái Tung Sơn, vào "nằm vùng" trong nội bộ phái Hoa Sơn của mình, Nhạc Bất Quần vẫn làm ngơ như chẳng biết, lại còn giả vờ tin tưởng Lao Đức Nặc, giao cho hắn những nhiệm vụ khác. Đợi cho phái Thanh Thành tàn sát hết Phước Oai tiêu cục, bắt ông bà Lâm Chấn Nam đưa về núi Hành Sơn để tra hỏi cho ra bộ Tịch tà kiếm phổ của dòng họ Lâm, Nhạc Bất Quần âm thầm theo dõi. Nguyên Nhạc Bất Quần có một đại đệ tử tính tình rất phóng khoáng tên là Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung vì cứu nàng Nghi Lâm - một nữ ni cô thuộc phái Hằng Sơn nên phải kết giao với một tay thanh danh tàn tạ là Điền Bá Quang. Trong một dịp tình cờ, Lệnh Hồ Xung được nghe hai vị Lưu Chính Phong của phái Hành Sơn (chính phái) tấu nhạc cùng một người bạn là Khúc Dương trưởng lão của Ma giáo. Trước khi họ chết, họ đã tặng cho Lệnh Hồ Xung bộ cầm phổ và tiêu phổ Tiếu ngạo giang hồ. Lệnh Hồ Xung lại gặp và nhận lời di chúc của ông bà Lâm Chấn Nam trước khi chết: "Xin Lệnh Hồ Xung hiền điệt báo cho con ta hay dưới hầm một căn nhà cũ trong ngõ Hướng Dương có vật gì thì đó là vật tổ truyền của nhà họ Lâm, cần phải giữ gìn cho cẩn thận. Tằng tổ y là Viễn Đồ Công có để lại lời giáo huấn hết thảy con cháu bất luận là ai cũng không được mở coi mà sinh tai hoạ ghê gớm". Vật đó chính là Tịch tà kiếm phổ, một kiếm phổ ác độc của dòng họ Lâm!

Lâm Bình Chi, con trai của ông bà Lâm Chấn Nam, đi từ Phúc Châu lên Hành Sơn tìm kiếm cha mẹ. Đợi cho Lâm Bình Chi lâm nguy, Nhạc Bất Quần mới ra tay giải cứu, và nhận gã làm đệ tử của phái Hoa Sơn. Nhân danh luật lệ của phái Hoa Sơn, Nhạc Bất Quần còn ra lệnh biệt giam đại để tử Lệnh Hồ Xung trên ngọn Ngọc Nữ phong. Ở đó, Lệnh Hồ Xung học được Hoa Sơn kiếm pháp với thái sư thúc tổ Phong Thanh Dương và học được đường Độc Cô cửu kiếm oai trấn giang hồ. Loại kiếm pháp này đi ngược lại kiếm pháp của Nhạc Bất Quần: lấy kiếm thế như nước chảy mây trôi làm căn cơ (kiếm tông) trong khi Nhạc Bất Quần lấy nội công làm căn cơ (khí tông).

Biết được điều ấy, Nhạc Bất Quần vu cáo Lệnh Hồ Xung đã lấy được Tịch tà kiếm phổ, sai Lao Đức Nặc giám sát gã và sau đó ra thông báo đuổi gã ra khỏi phái Hoa Sơn vì tội "kết giao với Ma giáo" (Điền Bá Quang). Sự thật là Nhạc Bất Quần đã cướp đoạt tấm cà sa có chép Tịch tà kiếm phổ của họ Lâm. Lão nuôi tham vọng lên ngôi Minh chủ Ngũ Nhạc kiếm phái để từ đó lập ra Ngũ Nhạc phái (bỏ chữ kiếm) và sử dụng Lệnh Hồ Xung như một con cờ thí để đánh lạc hướng của các địch thủ khác. Biết Tả Lãnh Thiền, chưởng môn phái Tung Sơn, cũng có tham vọng như mình, đưa Lao Đức Nặc vào nằm vùng trong phái Hoa Sơn, nên lão đã chép bản kiếm phổ giả, tạo điều kiện cho Lao Đức Nặc đánh cắp về cho Tả Lãnh Thiền luyện chơi. 

Kiếm phổ giả và kiếm phổ thật khác nhau ở chỗ nào? Đó là một câu ghi trên kiếm phổ: "Võ lâm xưng hùng. Dẫn đao tự cung" (Muốn xưng hùng võ lâm, phải biết lấy đao tự thiến). Đúng như lời Lâm Chấn Nam di chúc: "Bất luận là ai cũng không được cởi mở ra coi mà sinh tai hoạ ghê gớm". Lâm Viễn Đồ (tức Viễn Đồ Công) ông nội của Lâm Chấn Nam, có con rồi mới luyện Tịch tà kiếm phổ. Khi dặn Lệnh Hồ Xung nói lại với Lâm Bình Chi câu ấy, ông Lâm Chấn Nam chỉ lo con trai mình nóng lòng trả thù cho cha mẹ, phải "dẫn đao tự cung" thì dòng họ Lâm phải tuyệt tự. Nhạc Bất Quần chép "tặng" Tả Lãnh Thiền cả bộ kiếm phổ, chỉ không chép câu "Dẫn đao tự cung" cho nên kiếm phổ của Tả Lãnh Thiền luyện là giả! Riêng Nhạc Bất Quần có kiếm phổ là lão "dẫn dao tự cung" mặc dù lão chỉ có Nhạc Linh San là con gái duy nhất. Mà với nhà nho ngày trước "Bất hiếu hữu tam,vô hậu vi đại" (bất hiếu có ba điều, trong đó không có con trai nối dõi là điều bất hiếu lớn nhất). Biết là như thế nhưng tham vọng của Nhạc Bất Quần lớn quá, lão quyết tự làm cho mình tuyệt tự.

Lệnh Hồ Xung lưu lạc giang hồ, kết bạn với một cô gái cực kỳ xinh đẹp. Cô gái ấy là Nhậm Doanh Doanh, con gái của Nhậm Ngã Hành, giáo chủ Triêu dương thần giáo (tức Ma giáo). Anh bị trọng thương mất hết công lực; Doanh Doanh phải cõng anh lên chùa Thiếu Lâm chịu để cho các nhà sư cầm tù mình để các nhà sư cứu mạng Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung được khỏi bệnh. Khi hiểu ra mối thâm tình của Doanh Doanh, anh quyết cùng bọn hào sĩ giang hồ tiến lên chùa Thiếu Lâm đòi thả Doanh Doanh ra.

Trong buổi gặp gỡ tại chùa Thiếu Lâm, lần đầu tiên trong đời, Lệnh Hồ Xung rút kiếm ra đấu với sư phụ. Độc Cô cửu kiếm của anh hơn hẳn Hoa Sơn kiếm pháp của Nhạc Bất Quần. Nhạc Bất Quần sử đi sử lại ba chiêu Lãng tử hồi đầu (chàng lãng tử quay đầu lại), Thương tùng nghênh khách (những cây tùng xanh đón khách) và Tiêu Sử thừa long (Tiêu Sử cưỡi rồng mà bay). Ý của Nhạc Bất Quần đã rõ: lão khuyên Lệnh Hồ Xung nên trở về phái Hoa Sơn và lão sẽ gả Nhạc Linh San cho Lệnh Hồ Xung để Lệnh Hồ Xung có thể ung dung khoái hoạt như Tiêu Sử cưỡi rồng mà bay. Lệnh Hồ Xung nào không hiểu ý sư phụ. Nhưng anh dứt khoát phải cứu mạng Nhậm Doanh Doanh. Và đây cũng là lần đẩu tiên trong đời, kiếm pháp do Phong Thanh Dương phe Kiếm tông truyền thụ thắng lợi trước kiếm pháp phe Khí tông của Nhạc Bất Quần. Nhạc Bất Quần giận lắm, lão đá Lệnh Hồ Xung một cước và cái đá khiến lão gãy xương cẳng chân.

Thực ra, chuyện gãy chân chỉ là một màn kịch tuyệt khéo mà chỉ có Nhạc Bất Quần mới nghĩ ra được. Lúc bấy giờ, lão đang đấu trước mặt Tả Lãnh Thiền, kẻ thù chính sau này của lão. Lão chưa tiện giở Tịch tà kiếm pháp ăn cắp của họ Lâm ra mà chỉ dùng Hoa Sơn kiếm pháp. Khi Hoa Sơn kiếm pháp bị Lệnh Hồ Xung đánh bại, lão nổi nóng đá Lệnh Hồ Xung nhưng công lực của Lệnh Hồ Xung chưa đủ để khiến chân lão phải gãy. Chuyện gãy chân đó là do lão tự vận công mà làm gãy để cho Tả Lãnh Thiền phải mất cảnh giác, cho rằng công lực của lão không đáng kể. Quả nhiên, Tả Lãnh Thiền đã rơi vào bẫy khổ nhục kế của Nhạc Bất Quần.

Vâng, mọi âm mưu thủ đoạn của Nhạc Bất Quần đều được tiến hành rất khéo, dưới một bộ mặt nhân danh người quân tử, khiến mọi người hiểu lầm. Nhưng duy nhất có một người hiểu rõ mưu đồ của lão. Người đó là bà Ninh Trung Tắc, vợ của Nhạc Bất Quần. Hơn ai hết, bà biết chồng đã "dẫn đao tự cung" để luyện Tịch tà kiếm phổ vì từ khi luyện kiếm phổ, lão không hề chăn gối với bà! Nguy hiểm hơn, bà khám phá ra tâm tình lão đang biến đổi, trở thành người ái nam ái nữ, độc ác, thủ đoạn. Sáng nào, khi rũ chăn, bà cũng thấy những sợi râu của chồng rụng, và tiếng nói của lão ngày càng trở nên eo éo, do sự biến đổi phái tính. Bà khuyên lão đừng vu cáo Lệnh Hồ Xung nữa, từ bỏ giấc mộng làm minh chủ Ngũ nhạc phái và vứt bỏ tấm áo cà sa có chép Tịch tà kiếm phổ của dòng họ Lâm. Giả vờ nghe lời vợ, Nhạc Bất Quần vứt tấm áo cà sa xuống thung lũng núi Hoa Sơn.

Nhưng tấm áo cà sa đó đã không mất. Có một người đã nhặt được tấm áo đó sau nhiều năm rình rập ở căn phòng của Nhạc Bất Quần. Người đó là Lâm Bình Chi, con của ông bà Lâm Chấn Nam. Bình Chi đã nghi sư phụ đoạt được tấm áo cà sa của nhà mình và đã luyện được Tịch tà kiếm pháp của nhà mình. Hắn âm thầm theo dõi thầy và chụp được tấm áo cà sa bị vứt bỏ. Thế là quên mất lời dặn dò của cha, hắn vội vã "dẫn đao tự cung" ngay khi mới mười chín tuổi để luyện Tịch tà kiếm phổ!

Một ngày nhìn ra hẻm núi, Nhạc Bất Quần không còn thấy tấm áo cà sa nữa. Lão biết có một ai đó đã lấy được kiếm phổ và "ai đó" chính là Lâm Bình Chi. Lão đánh tiếp một bước cờ thật cao: gả Nhạc Linh San, con gái yêu của lão cho Lâm Bình Chi. Vài đêm sau, lão dò hỏi Nhạc Linh San, hỏi con gái có "hạnh phúc" không. Nhạc Linh San nói dối lão rằng cô rất hạnh phúc. Thực ra từ khi "dẫn đao tự cung", Lâm Bình Chi đã trở thành một tay thái giám thì còn làm ăn gì được. Đêm nào hắn cũng ngủ riêng và thù ghét Nhạc Linh San ra mặt.Chính câu nói dối của Nhạc Linh San đã cứu mạng gã Lâm Bình Chi. Nếu cô nói rằng sau sau ngày cưới, Lâm Bình Chi chưa hề làm chồng cô đêm nào thì Nhạc Bất Quần sẽ biết ngay là Lâm Bình Chi đã luyện Tịch tà kiếm phổ và đã giết Lâm Bình Chi rồi.

Bộ mặt thật của Nhạc Bất Quần chỉ hiện ra trong lần đại hội Ngũ nhạc kiếm phái trên ngọn Tung Sơn. Lão đẵ sử dụng Tịch tà kiếm pháp thứ thiệt đánh với Tịch tà kiếm pháp giả mạo của Tả Lãnh Thiền, đâm mù được đôi mắt Tả Lãnh Thiền bằng những ngón tay dịu dàng như thủ pháp một cô gái đang dùng kim thêu. Lão lên ngôi minh chủ Ngũ nhạc phái, đúng như dự kiến ban đầu. Bấy giờ, Lệnh Hồ Xung đã trở thành chưởng môn phái Hằng Sơn; lại được lão o bế, vỗ về khác xa với ngày đuổi Lệnh Hồ Xung ra khỏi môn phái. Bằng cái nhãn giới của người nhạy cảm, Doanh Doanh đã nói nhỏ vào tai tình lang Lệnh Hồ Xung ba tiếng nhận xét về Nhạc Bất Quần: "Nguỵ quân tử". Và chỉ đến lúc ấy Lệnh Hồ Xung mới cảm thấy cụm từ trên thật phù hợp với con người mà anh đã từng yêu mến, kính ngưỡng bấy lâu nay.

Mọi chuyện về cuộc đời Nhạc Bất Quần kết thúc đúng như tinh thần chung của tiểu thuyết phương Đông: kẻ gieo gió phải gặt bão. Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần trở thành một kẻ mất hết nhân tính, bỏ vợ, bỏ con, xa lánh học trò, rượt đuổi theo giấc mơ trở thành minh chủ võ lâm Trung Hoa. Nhưng than ôi, Tịch tà kiếm pháp của hắn không thể thắng được Độc Cô cửu kiếm mà Phong Thanh Dương đã truyền thụ cho Lệnh Hồ Xung. Để trừ hậu hoạ cho tình lang, Nhậm Doanh Doanh bóp mũi Nhạc Bất Quần, buộc lão phải há miệng uống một viên Tam thi não thần đan, thứ thuốc độc dùng để khống chế kẻ khác của Triêu Dương thần giáo. Cuối cùng lão bị tiểu ni cô Nghi Lâm đâm một kiếm qua đời. Còn Lâm Bình Chi, một kẻ tiểu nguỵ quân tử, phong cách ung dung nho nhã đúng y khuôn Nhạc Bất Quần sư phụ? Hắn cũng nổi điên, giết vợ là Nhạc Linh San. Đôi mắt bị đui mù, hắn theo Lao Đức Nặc về với Tả Lãnh Thiền. Giấc mơ Tịch tà kiếm phổ tàn lụi và thay vào đó là tiếng đàn sáo hài hoà trung chính của bộ cầm phổ-tiêu phổ Tiếu ngạo giang hồ trỗi lên.

Năm 1996, trả lời câu hỏi của nhà báo Lê Văn Nghĩa trên tạp chí Kiến thức ngày nay, nhà báo Trần Bạch Đằng phát biểu, đại ý: nếu trên một hòn đảo cô độc, ông sẽ đem theo bộ Tiếu ngạo giang hồ để làm bạn vì ông rất ghét Nhạc Bất Quần và yêu Lệnh Hồ Xung. Suy nghĩ của ông Trần Bạch Đằng cũng là suy nghĩ của thế hệ độc giả đọc Tiếu ngạo giang hồ. Nhưng than ôi, giữa cuộc sống của chúng ta, những tay "Quân tử kiếm" cỡ Nhạc Bất Quần còn khá bộn!

Cấu trúc nhịp thơ và nhạc âm của thơ

TRẦN THIỆN KHANH

1. Cấu trúc bên trong và cấu trúc bên ngoài của nhịp


Tại sao ta xếp bài thơ này vào thể lục bát, song thất lục bát, còn bài thơ kia lại được đặt vào thể thất ngôn, ngũ ngôn...? Sở dĩ, chúng ta nhận diện được hình thức bên ngoài của từng lối thơ ấy, vì ta nhìn thấy qui luật ngắt nhịp, ngắt dòng của chúng khác nhau. Tính có nhịp điệu, và sự ngắt nhịp liên tục, từ lâu đã trở thành yếu tố nhận diện thơ khác với văn xuôi, bài thơ này khác với bài thơ kia... Nói cách khác, tính thơ nằm ở tính có nhịp điệu và sự hiệp vần của nó.

Từ lâu, chúng ta hiểu nhịp thơ chỉ là yếu tố bên ngoài, một yếu tố của hình thức cụ thể cảm tính. Nay hiểu thêm, nhịp thơ là một yếu tố bên trong tạo hình thức thơ, hình thức câu thơ. Sự sắp đặt các khổ thơ luôn luôn biểu hiện tương quan giữa các nhịp điệu. Tương quan giữa các nhịp trong một câu thơ, dòng thơ... tạo nên tính hệ thống, tính nội dung cho cấu trúc nhịp điệu của toàn bộ thi phẩm. Nhịp điệu nằm bên trong bản thân kiến trúc ngôn từ và qui định kiểu kiến trúc ấy. Muốn khám phá cấu trúc nhịp thơ, độc giả còn phải đi qua cái khoảng không vô hình do các bước thơ tạo ra. Mỗi lần đi qua các bước thơ độc giả sẽ có những cảm nhận, cảm giác khác nhau về tính thơ, về nội dung thông tin, biểu cảm tiềm tàng ở phát ngôn thơ. Đi từ bước thơ này đến bước thơ kia phải mất một khoảng thời gian nhất định và ngắt nhịp không hợp lí câu thơ sẽ vô nghĩa.

Có cấu trúc nhịp điệu bên trong và cấu trúc bên ngoài của nhịp điệu. Cấu trúc bên ngoài biểu hiện ở cách trình bày nhịp câu thơ, nhịp khổ thơ, ở việc sử dụng dấu câu của tác giả và khuôn nhịp chung của thể loại. Cấu trúc bên trong một mặt ứng với nguyên tắc tổ chức nhịp điệu của từng chủ thể, mặt khác nó do nhịp sống, tốc độ sống, cách sống của đối tượng gợi ra. Cấu trúc bên trong thể hiện tương quan nội dung mang hình thức nằm bên trong cấu trúc bên ngoài của nhịp điệu. Độc giả không thể đếm được nhịp bên trong của bài thơ, của đối tượng miêu tả, mà chỉ có thể cảm được, nghe được, tưởng tượng thấy nó.

Để hiểu rõ về cấu trúc bên trong và cấu trúc bên ngoài của nhịp, dưới đây chúng ta thử tìm hiểu một đoạn thơ của Hoài Vũ:

Anh phải về thôi, xa em thôi!

Ngoài kia phiên chợ vãn lâu rồi
Giọt nắng cuối ngày rơi xuống tóc
Mà lời từ biệt chẳng lên môi.

Anh phải về thôi, xa em thôi!
Xa vườn xưa, đôi chiền chiện tha mồi
Hoa khế rụng tím hầm ngầm bí mật
Để mãi lòng ta xao xuyến bồi hồi...

                                                     (Hoàng hôn lặng lẽ - Hoài Vũ)

Câu thơ mở đầu có cấu trúc hai nhịp. Cấu trúc hai nhịp ở đây phản ánh một cảm thức chia li khá rõ. Nhân vật trữ tình cảm thấy sự chia li đang đến gần và nhất định sẽ xảy ra. Do đó, anh ta bộc bạch tâm thế hiện thời của mình để nhân vật em hiểu mà chia sẻ. Tâm thế ấy trước tiên được thể hiện bằng một giọng điệu trầm lắng, thứ nữa biểu hiện qua sự hoà thanh. 

Sự hoà thanh ở nhịp thứ nhất phản ánh rõ rệt cơ chế xung động nội tâm. Cơ chế này được cụ thể hoá thành hiệu ứng gấp khúc âm sắc. Sự hoà thanh ở nhịp thứ hai cũng chịu sự chi phối của xung động tâm trạng, song về cơ bản, tần số nảy sinh và  biểu lộ tâm trạng của nó giảm dần, rồi thấp hơn mức bình thường ở hư từ "thôi". Nói khác đi đến từ "thôi" nhân vật anh không thể nói rõ hơn cảm xúc của mình. Tôi quan niệm sự khác biệt về bước sóng tâm trạng và tần số của nó theo cách mà chúng tôi vừa chỉ ra, đã làm thành nguyên nhân sâu xa tổ chức nên nhịp đôi cho câu thơ thứ nhất.

Xin nói rõ hơn về hiện tượng tổ chức nhịp đôi của câu thơ mở đầu. Tôi xem cấu trúc nhịp đôi mà ta vừa quan sát được, có quan hệ biện chứng với hai bước sóng tâm trạng. Hai bước sóng ấy chuyển hoá thành hai sự chuyển động: chuyển động tâm trạng và chuyển động giọng điệu. Sự chuyển động của tình cảm dễ nhận ra hơn cả. Chẳng hạn, ở vế thứ nhất, nhân vật trữ tình bộc bạch cái ý hướng buộc "phải xa cách" để thăm dò nhân vật em. Ở vế thứ hai, anh ta tiếp tục nhắc lại điều ấy với hai mục đích: thứ nhất - bộc lộ tâm trạng luyến nhớ và khát khao muốn ở lại; thứ hai - khẳng định sự thực chia xa đang đến rất gần. Cùng với sự chuyển động của tình cảm, ta quan sát được sự chuyển động của giọng điệu. Bề ngoài, nhịp thơ đầu thể hiện hành động dứt khoát, song bên trong chứa đựng nỗi đau chia lìa. Nhịp thứ hai có âm hưởng ngậm ngùi, song lại gần với một lời nhắc nhở  khéo léo. Nhắc nhở để chờ đợi điều gì đó thường xảy ra. Đến đây có thể kết luận: sự phức hợp của tâm trạng tạo nên sự phức hợp của giọng điệu. Toàn bộ sự phức hợp đó, trên một mức độ đáng kể chuyển hoá thành cơ chế cấu trúc nhịp thơ.

Câu thơ đầu kết thúc bằng vần "ôi". Câu thơ thứ hai và câu thơ thứ tư lặp lại nguyên vẹn khuôn vần đó để tạo nên âm vang ngôn từ, âm vang cảm xúc. Nếu câu thơ thứ hai, câu thơ thứ tư không gieo vần "ôi" hoặc gieo vần, nhưng không hoàn toàn trùng hợp với khuôn vần đó, chắc chắn âm điệu câu thơ sẽ khác. Sự "khác" này sẽ làm giảm đi cái ấn tượng ban đầu của chúng ta về hình thức của phát ngôn ta mà ta vừa nghe thấy trước đó. Chẳng hạn tính nhạc, tính thơ của nó sẽ bị giảm sút. Vì rằng, tính thơ, tính nhạc của phát ngôn không phải lúc nào cũng xuất hiện theo cơ chế nội sinh, mà ta thường thấy nó hiện ra khi có sự tương tác, chuyển hoá uyển chuyển, nhịp nhàng giữa các hệ thống ngôn từ.

Thật vậy, câu thơ "Anh phải về thôi, xa em thôi" tách hai nhịp để đánh dấu giọng và điệp vần "ôi" để củng cố tính nhạc cho nó. Ta nói hệ thống ngôn từ của câu thơ trong sự vận động đặc thù của nó đã tạo nên tính nhạc. Tính nhạc này trở nên nổi bật hơn khi nó tương tác, chuyển hoá sang hệ thống vần nhịp của các câu thơ tiếp theo. Đối với trường hợp sau này, tôi nói tính nhạc hình thành theo cơ chế ngoại sinh. Tôi quan sát thấy có hai nguyên tắc tạo nhạc cho thơ: a) nguyên tắc 1, bao gồm: lặp vần để truyền âm; lặp thanh điệu để tạo âm hưởng vang vọng; lặp cấu trúc câu để tạo nên một giai điệu nào đó; b) nguyên tắc 2, đối lập và bổ sung cho nguyên tắc 1 ở chỗ: nó thường xuyên tạo ra sự vênh lệch, trật khớp giữa các hệ thống ngôn từ. Lặp để tạo các điểm nhấn tu từ, còn vênh lệch, trật khớp nhằm tạo nên sự đa dạng về âm thanh.

2. Nhạc âm của ngôn ngữ thơ

Theo các nhà vật lí, trong các loại âm mà tai chúng ta cảm thụ được, thì tiếng hát, tiếng đàn... có một tần số hoàn toàn xác định, tức đối với những loại âm đó, chúng ta có thể đo được biên độ và tần số dao động của nó. Và để phân biệt nó với loại tạp âm chẳng hạn tiếng bước chân, tiếng máy nổ... người ta gọi nó bằng thuật ngữ "nhạc âm". Văn bản thơ cũng có nhạc âm, bởi vì chúng ta có thể xác định được  trường độ, cao độ của các âm tiết, có thể cảm được nhạc tính của vần, của sự lặp lại các yếu tố ngôn ngữ.
Vả chăng thì các yếu tố - chẳng hạn độ cao, độ dài và, độ mạnh của âm thanh ngôn ngữ ngoài tính chất vật lí, còn chứa đựng yếu tố tâm lí. Bởi vì ngôn ngữ thơ ngoài chức năng giao tiếp còn có chức năng tư duy. Nói khác đi, sự sản sinh ra ngôn ngữ thơ bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với quá trình tư duy, với  sự suy tưởng và biên độ dao động của tình cảm con người. Cổ nhân nói "thi trung hữu nhạc" thì nên hiểu thêm nhạc âm quan hệ với nhạc lòng.

Tiếng Việt chỉ có hai hệ thống thanh: thanh bằng và thanh trắc. Song nhạc thơ  rất đa dạng, phong phú. Vậy tại sao lại có hiện tượng này? Căn cứ vào mặt âm học, sơ bộ ta có thể khẳng định, do:
 a) mỗi âm tiết có độ cao - độ dài - độ mạnh của âm khác nhau
 b) giải âm tần của một câu thơ thường đan xen ba mức: cao- thấp - trung bình;
 c) mỗi vần và cách thức hiệp vần đều đem lại các âm sắc  riêng biệt, ví dụ vần chính tạo ra những cảm giác âm thanh khác với vần thông.
 d) mỗi khuôn nhịp, khuôn vần tạo ra một giọng điệu khác nhau vì sự hoà thanh, hoặc sự phân bố trọng âm, thay đổi cao độ của giọng nói giữa chúng không ổn định;
 e) đối với những sự kiện âm thanh phức tạp, con người khó phát âm, khó cảm thụ, lại khó nhớ. Vì vậy, nhạc âm của ngôn ngữ vừa phải đảm bảo tính uyển chuyển, mềm mỏng vừa phải đa dạng, hài hoà.
 f) tâm trạng và "tiếng nói bên trong" của mỗi nhân vật, mỗi nhà thơ không hoàn toàn đồng nhất, tức nó có sắc thái cá thể. Ví dụ người có tâm trạng buồn sẽ lựa chọn hệ từ vựng có âm sắc phù hợp với nó để biểu đạt, người có tâm trạng vui sẽ tìm đến những từ ngữ có mặt âm thanh và mặt nghĩa khác hẳn với từ ngữ gợi âm hưởng buồn, người thích nói ngược, người thích nói xuôi,...

Nhạc âm của ngôn ngữ thơ vừa do tác giả sáng tạo nên vừa do độc giả sử dụng và phát hiện. Kết quả sáng tạo của tác giả được thể hiện bằng văn bản ngôn từ, ở đó, mỗi câu thơ thường có cách thức tổ chức khác nhau. Giá trị thẩm mỹ của sự hiệp vần, cùng ý nghĩa của các khuôn nhịp đến đâu phụ thuộc vào "ngưỡng nghe", ngưỡng cảm" - ngưỡng tiếp nhận của độc giả. Độc giả tự nghe, tự cảm, tự phát hiện ra ý nghĩa tiềm tại ở cấu trúc nhịp điệu và tổ chức ngữ âm của văn bản ngôn từ. Câu thơ nhiều thanh bằng, nhạc âm sẽ trầm. Dòng thơ toàn thanh trắc, nhạc âm của nó sẽ cao và vang. Dòng thơ ngắn sẽ có âm hưởng khác với dòng thơ dài; sự phối hợp giữa chúng sẽ để lại một kiểu âm khác với cấu trúc câu thơ đều đặn. Tất cả điều này  được giải thích từ tổ chức âm thanh, tổ chức nhạc âm đặc trưng của nó. Mỗi câu thơ có một miền chúng ta nghe được, có một vùng chúng ta chỉ cảm  thấy. Miền chúng ta nghe được do sự cộng hưởng của thanh điệu, vần điệu... tạo thành. Vùng chúng ta chỉ cảm thấy thuộc loại "sóng siêu âm" do sự giao thoa giữa các hệ thống ngôn từ để lại. Nhạc âm được lĩnh hội bằng kinh nghiệm, bằng thính giác. "Sóng siêu âm" của ngôn từ được lĩnh hội bằng trực giác, bằng sự đồng cảm. Vì thế, không phải bao giờ chúng ta cũng cắt nghĩa được rạch ròi cái âm hưởng nào đã cuốn hút ta, mê hoặc ta. Hiện tượng này được chứng minh rõ hơn - khi lần đầu tiên ta tiếp xúc với bài thơ nào đó - dù chưa hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng ta vẫn cảm thấy nó  rất hay, cái hay đầu tiên ta cảm thấy rõ rệt ở nhạc âm của nó. Tôi cho rằng mỗi bài thơ có một loại nhạc âm. Nhạc âm đó có thể phù hợp với ngưỡng nghe của ta, sự chờ đợi của ta, niềm ham thích của ta. Khi chúng ta vui, chúng ta sẽ nghe thấy nhạc âm của bài thơ khác với lúc chúng ta buồn, một người thích kiểu thơ giàu tính nhạc sẽ  không mấy mặn mà trước lối thơ có năng lượng nhạc âm thấp.

Trên phương diện nhạc âm, có thể chia thơ thành hai loại: thơ nhạc và thơ phản nhạc.
Tôi gọi thơ nhạc - tất cả những bài thơ chú trọng đến sự hiệp vần và tổ chức nhịp điệu. Thơ nhạc thuần chất thì chỉ có giọng một bè, ít có sự gián đoạn hoặc mâu thuẫn nội tại. Nhạc âm của thơ nhạc chỉ đặc trưng cho một thể loại mà nó thuộc vào. Ví dụ nhạc âm của thơ lục bát khác với nhạc âm của thơ thất ngôn.

Trong phạm vi hẹp, chúng tôi dùng khái niệm Thơ nhạc để chỉ loại hình thơ cổ điển. Thơ cổ điển qui định cụ thể về cách thức tổ chức ngữ âm, tổ chức thanh điệu và vần điệu. Bằng cách này, thơ cổ điển đã tạo ra một kiểu nhạc riêng, một kiểu âm riêng cho mình. Nhạc âm của thơ cổ điển mang điệu ngâm. Và chỉ đến Thơ mới, nhạc âm mới có tính chất điệu nói.

Thơ cổ điển chỉ có nhịp của thể loại. Do vậy nhạc âm của một bài thơ cổ điển cũng chỉ nằm trong khuôn khổ của một thể loại nào đó mà thôi. Chẳng hạn nói đến thơ thất ngôn bát cú luật Đường, chúng ta có thể thống kê được số lượng bước nhịp cực đại của nó. Bởi vì:  a) một câu thơ thất ngôn  bát cú hoặc tứ tuyện luật Đường chỉ có hai cách ngắt nhịp: hoặc 4/3 hoặc 2/2/3;  b) câu thơ Đường luật lại rất hiếm khi phá cách, phá luật tổ chức nhịp điệu, vì phá nhịp đồng nghĩa phá giọng điệu, phá cái âm vang riêng của thơ Đường. Tựu trung, đếm nhịp, tính nhịp cho thơ cổ không mấy khó khăn lắm. Tìm hiểu đoạn thơ dưới đây sẽ thấy rõ điều đó.

"Tích nhân/  dĩ thừa/  hoàng hạc khứ

Thử địa/  không dư/  Hoàng Hạc lâu
Hoàng hạc/ nhất khứ/  bất phục phản
Bạch vân/ thiên tải/ không du du

(Hoàng Hạc lâu - Thôi Hiệu)

Dễ thấy, về mặt hình thức sáng tạo, Thôi Hiệu đã phá luật, phá cách. Chữ cuối cùng của câu thứ nhất, đúng cách phải gieo vần. Nhưng tác giả lại không làm điều đó. Thêm nữa, thơ Đường rất kị lặp từ, thế mà Thôi Hiệu vẫn cứ vi phạm luật chơi. Chỉ bốn câu thơ mà có tới ba từ "hoàng hạc", lại hai chữ "không", hai chữ "khứ" nữa. Cũng chẳng mấy người đem động từ (khứ) đối với danh từ (lâu). Và thật hiếm gặp lối "tam bình điệu"  lẫn ý thức "coi thường" luật "nhị tứ lục phân minh".

Dẫu Thôi Hiệu mắc ngần ấy "lỗi làm thơ". Song ta không hề thấy nhịp thơ, bước thơ thay đổi. Câu thơ nào cũng có ba bước nhịp. Sự lặp lại của cấu trúc câu thơ ba bước nhịp ở đây, chỉ nhằm tạo nên sự đăng đối. Một cặp câu thơ đối nhau thì trước hết chúng phải cùng cấu trúc nhịp điệu. Đối với người sáng tác, nghệ thuật đối   mặc nhiên trở thành một nguyên tắc cấu trúc nhịp thơ. Nhịp thơ cổ điển biểu hiện kinh nghiệm sáng tác thơ của tác giả, hơn cá tính sáng tạo của anh ta. Yếu tố nhịp điệu trong thơ cổ điển  thường ổn định hơn so với các yếu tố nghệ thuật khác. Nhạc âm của thơ cổ điển có tính qui phạm.

Danh xưng Thơ phản nhạc ở đây, chỉ được dùng một cách ước lệ, với nghĩa chỉ một lối thơ mới, lối thơ giải phóng vần điệu, nhạc nhịp khỏi những khuôn sáo cũ kĩ của thể loại. Thơ phản nhạc vẫn có nhạc, nhịp. Nhưng nhạc nhịp, tiết tấu của nó không còn minh hoạ cho nhạc nhịp, tiết tấu chung của thể loại mà nó thuộc vào. Thơ phản nhạc chống lại khuôn thi điệu cố định. Thơ phản nhạc tạo ra sức mạnh lớn lao cho nhịp điệu. Nó đem lại cho ta cảm  giác sống động về cuộc sống, về tư duy con người. Dòng thơ phản nhạc đương đại bước đầu thu nhận về mình tất cả các thể loại nhạc: Rốc, Ráp, Hiphop... Nhịp nhạc, tiếu tấu của Thơ phản nhạc thật da dạng, thậm chí hỗn tạp. Điều này có liên hệ với cấu trúc phân mảnh và tinh thần đa nguyên của nó. Đọc Thơ phản nhạc, không nên chăm chăm vào bản thân chữ nghĩa, mặc dù câu chữ ở đó được lựa chọn rất công phu. Điểm rơi của từ ngữ, cách thức ngắt chữ, nghệ thuật tạo ra những bước đi độc đáo cho thơ... đang thu vào diện trường  quan sát của độc giả. Ví dụ, Trần Dần viết:

Tôi bước đi

không thấy phố 
không thấy nhà
                     Chỉ thấy mưa sa
                                         trên màu cờ đỏ
                                                              (Nhất định thắng)

Cách thức bố cục, ngắt chữ ở mấy câu thơ trên gợi nhiều khoảng trống ám ảnh. Năm câu thơ tượng trưng cho năm bước đi buồn lặng. Nhịp thơ ba tiếng  tái hiện sự hư rỗng. Nhịp thơ bốn tiếng miêu tả sự hiện diện của màu cờ rực rỡ và không khí ảm đạm của ngày mưa. Các câu thơ được sắp xếp thấp dần, xui khiến ta liên tưởng tới hình ảnh người đi cúi đầu. Cảm thức bơ vơ, chán nản ở chủ thể trữ tình chuyển hoá tự nhiên thành nguyên tắc cấu trúc nhịp điệu độc đáo.

Đối với cách đọc thông thường thì, đoạn trên, chỉ có hai câu thơ, truyền tả hai cảm nhận. Song trên thực tế, nhà thơ Trần Dần lại cố ý tạo ra các bước thơ khác nhau. Trần Dần bẻ gẫy tính hình tuyến của câu thơ. Và sắp đặt ngôn từ  thành các lớp biểu cảm, các giai đoạn biểu ý. Tôi tâm đắc với nghệ thuật chọn điểm rơi cho câu chữ ở Trần Dần.

Thơ phản nhạc ra đời từ nhu cầu cách tân. Kết quả của sự cách tân thơ, xét ở cấp độ hình thức, nhất thiết phải tạo ra cấu trúc nhịp điệu mới mẻ có giá trị thẩm mỹ đặc sắc. Chẳng có chuyện, người thơ đổi mới, mà hình thức của thơ lại cứ phong vận cũ. Mới về từ, hay về cách kết hợp từ ngữ không xảy ra trên diện rộng. Đóng góp ở mặt này, (nếu có) cùng lắm chỉ tạo ra một vài điểm sáng ngôn từ giữa một số dòng thơ. Còn cấu trúc nhịp điệu với tư cách một phương thức tổ chức tác phẩm thì phải hoà tan vào toàn bộ cơ thể nghệ thuật.

Nhớ dạo nọ, Nguyễn Văn Vĩnh đem về một "lối thơ Tây", câu thơ Tây, cách gieo vần rất Tây và cách nhắt nhịp thì rõ Tây Quá.

Ve sầu kêu ve ve,

Suốt mùa hè.
Đến kì gió bấc thổi,
Nguồn cơn thật bối rối.
Một miếng cơm chẳng còn,
......
Trong bối cảnh, thơ Việt đang quen với điệu, nhịp kiểu Đường thi, lục bát, thì sự xuất hiện đường đột của "Con ve và con kiến" (1928?) chắc chắn không tránh khỏi thái độ thiếu thiện cảm của "người làm thơ chính tông". Đặt hai dòng thơ "Ve sầu kêu ve ve/ Suốt mùa hè" bên cạnh, ví dụ câu thơ của Nguyễn Trãi: "Lao xao chợ cái làng ngư phủ/ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch  dương" thì sẽ thấy chúng khác nhau một trời một vực. Nguyễn Văn Vĩnh sử dụng lối thơ tự do để kể chuyện. Nhịp thơ lạ. Cấu trúc câu so le nhau càng lạ.

Thực ra, bài thơ "Con ve và con kiến", từ cốt truyện đến hình thể câu thơ đều không phải do Nguyễn Văn Vĩnh sáng tạo. Dù vậy, nếu ta công bằng xét tác phẩm ấy trong tương quan với phong trào Thơ mới thì sẽ  gỡ gạc được ít nhiều sự thật: "Con ve và con kiến" giữ một vị trí đáng kể trong tiến trình vận động giao thoa của thơ Việt.

Hồi trước, nói tới phong trào Thơ mới, không ai quên nhắc đến tên tuổi Phan Khôi. Cũng bởi vì, Phan Khôi trình làng thơ đương thời thi phẩm "Tình già" mới mẻ (1932). Và sau đó, ông tham gia nhiều cuộc bút chiến về vấn đề "thơ cũ, thơ mới". Dưới đây xin trích đọc dăm câu của bài thơ "Tình già":

Hai mươi bốn năm xưa/ một đêm vừa gió lại vừa mưa

Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai mái đầu xanh
kề nhau than thở:
ôi đôi ta tình thương thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn là không đặng;
                .........
Hai mái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố nhìn ra được.
ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi! Con mắt còn có đuôi.

"Tình già"của Phan Khôi chẳng khác gì một mảnh vỡ của thể loại tự sự. Nó có chuyện, chuyện "tơ duyên ngắn ngủi" của hai kẻ đầu xanh. Nó có người kể chuyện, khi đứng bên ngoài hướng về một tình yêu tự do, lúc đứng bên trong, "than thở, liếc nhìn". Đọc "Tình già" không ai không thấy, từ tư tưởng của người kể cho đến hành động của mỗi nhân vật trong thi phẩm đều thật táo bạo.

Câu chuyện "Tình già" của Phan Khôi mới từ trong tư tưởng, cách nhìn nên một cách tự nhiên nó đã tìm đến một hình thức mới, một cách diễn đạt mới, mà bản thân thể thơ  cổ truyền và cả lối tự sự thông thường không thể có được. Tôi muốn nói tới dấu hiệu "bi kịch" của hình thức nghệ thuật. Câu thơ của Phan Khôi không hạn định về số chữ, cũng chẳng theo luật bằng trắc gì hết. Nó hiện diện với hình thể lạ ấy, để khẳng định nhu cầu tự sự tự thân của thơ. Người kể ngắt dòng tuỳ ý. Sự ngắt dòng hoàn toàn tự do này hoặc sự xuống dòng theo một qui ước mới của người kể thường tạo ra những câu thơ hoàn toàn mới về nhịp, nhạc.Tôi cũng đặc biệt lưu ý tới hiện tượng ngắt ý, ngắt câu trong một dòng thơ. Dấu hiệu đổi mới nhịp điệu mạnh mẽ trong thơ ca nói chung, "Tình già" của Phan Khôi nói riêng thể hiện  trước hết ở sự kéo dài  các bước nhịp và sự ngừng ngắt nhiều lần của một chuỗi ngữ lưu nghệ thuật.

"Tình già" của Phan Khôi khoác lên mình chiếc áo là lạ. Và hơn hết, bài thơ ấy chọn  được cho mình một lối đi mới, thể hiện trong cách ngắt dòng, ngắt ý của nó. Mỗi dòng một cách đi, một lối ngắt. Nhà thơ  bạo dạn ép vần, giải phóng vần để thể hiện được cái tự do của tư tưởng con người. Thơ luật Tàu làm sao dám hiệp vần, tạo nhịp tự do  bất kể câu ngắn hay dài nhường này!
Nói về một thời đại mới trong thi ca, tôi muốn nhắc tới một số dấu hiệu đổi mới cấu trúc nhịp thơ của thi sĩ Tản Đà.

"Nguyên lúc canh ba nằm một mình

Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh
Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống
Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn

Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng
Ra sân cùng bóng đi tung tăng
Trên trời bỗng thấy hai cô xuống
Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:

- "Trời nghe hạ giới ai ngâm nga
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!
Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua"

Ba đoạn thơ trên trích trong bài thơ "Hầu Trời". Cấu trúc bên ngoài của nhịp thơ không mới, nhịp 2/2/3 phổ biến và nhịp 4/3  lặp lại đều đặn. Cấu trúc nhịp điệu bên trong của câu thơ, bài thơ ít nhiều đã có ý nghĩa cách tân. Trước kia, khuôn thơ bảy chữ ngắt nhịp theo qui luật đắp đổi, hài hoà của âm dương. Đến Tản Đà, nguyên tắc ngắt nhịp thơ có dấu hiệu phóng khoáng, tự nhiên hơn nhiều. Tính chất phóng khoáng và tự nhiên ấy có quan hệ với việc đánh dấu giọng thơ bằng ngữ điệu nói của nhà thơ. Ví dụ câu thơ sau đây: "Nguyên lúc canh ba nằm một mình" sử dụng ngữ điệu nói, trọng âm rơi vào từ "nguyên". Nội dung của câu thơ không có gì đặc sắc. Nhưng cấu trúc 3 bước nhịp của nó thì mới mẻ. Ba bước nhịp hoàn toàn lẻ và không đều nhau ấy đã bỏ rơi cấu trúc nhịp mang tính qui phạm của thơ cổ điển luật Đường rồi. Sự thay đổi đó phản ánh một sự thay đổi khác ở bên trong: tư duy thơ tỏ chí được thay bằng tư duy thơ lấy thuật sự làm trọng. Tư duy thuật sự giúp thơ Tản Đà không trở thành thứ văn chơi vừa khuôn sáo vừa vô giá trị. Trái lại, nó  kéo thơ Tản Đà gần với thời thế hơn.

Thơ hiện đại tạo ra nhịp điệu của ngữ cảnh. Ngữ cảnh trữ tình đổi thay thường xuyên, nên nhịp thơ tất yếu biến đổi theo. Chỉ đến thơ hiện đại mới có nhịp của chủ thể - biểu hiện cá tính  của chủ thể. Chúng ta thật khó xác định được mức độ tối thiểu và tối đa của nhịp thơ hiện đại. Thơ hiện đại tự do trong cách tổ chức câu thơ, tổ chức nhịp thơ. Nhịp thơ hiện đại với tư cách một hệ thống nguyên tắc tổ chức dòng thơ  luôn được biểu hiện thành các thao tác cấu trúc sinh động một tác phẩm. Ví dụ thơ Vi Thuỳ Linh... mang lại cho chúng ta cái nhìn mới, có khi rất độc đáo về "chuyện muôn thuở của loài người". Cái nhìn trần tục, phóng túng đến quá đà ở Vi Thuỳ Linh thôi thúc nhà thơ tìm tòi cách thể hiện mới. Vi Thuỳ Linh không chấp nhận lặp lại bước đi của tiền nhân. Nhà thơ trẻ ấy muốn mỗi bước mình đi đều có "nắng xối". Chị khao khát xoá đi cái ảo giác thường trực ở con người bằng cách "phục hiện cuộc sống"  ban sơ có trong mỗi chúng ta và bày nó lên trên trang giấy.

Vi Thuỳ Linh kể lại ý nghĩ và cảm xúc của mình một cách thành thực và tha thiết nhất. Chị không làm cái việc phiên dịch lại tâm tư mình, nên chúng ta mới  thấy con người tinh thần của chị ở dạng bản nguyên. Những khao khát nồng nàn, mãnh liệt của Vi Thuỳ Linh mỗi khi được ngôn ngữ khích lệ, thì lập tức biến thành nhạc nhịp rất riêng và đa dạng cho thơ.

"Tự nhủ không thể yêu ai nữa

Người đàn bà sống một mình, vừa muốn quên, vừa mong ngóng
Chị cố tránh con đường xưa...
Lại đêm...
Lại đêm...

Lại một giao thừa xuân hực nhựa
Để mặc những người đàn ông đến và đi, ngoài cánh cửa
Mười bảy đêm giao thừa đi qua...
Rồi lịch cũng không muốn xé
Tờ lịch lẻ loi đến đầu giường, như lá bùa sã
cánh
Chị nhặt lên.
dán lại
đêm...

Câu thơ thứ nhất hai nhịp: "Tự nhủ/ không thể yêu ai nữa". Tôi thấy không khó lắm để chỉ ra nội dung thông tin, biểu cảm cụ thể của  hai nhịp thơ này. Song, vấn đề quan trọng hơn ở chỗ: vì sao Vi Thuỳ Linh lại mở đầu tác phẩm bằng cấu trúc câu thơ hai nhịp?

Ngữ cảnh bài thơ cho biết: Nhân vật trữ tình  đang sống trong tâm thế chông chênh giữa hiện thực và mộng mị. Thiếu phụ tỉnh táo dặn mình không trở lại con đường xưa. Sự trải nghiệm đã vạch ranh giới cho niềm yêu vội vã của chị đang tỉnh thức. Sự kiện "tự nhủ" cấp cho ta cái ngữ cảnh con người đang hướng về bản thân mình sau khi nghĩ về ai đó, mường tượng ra ai đó hoặc sự kiện nào đó. Nhịp thơ chầm chậm vì diễn tả cảm giác thấm thía, ngậm ngùi. Hơn nữa, chính bước đi chậm của nhịp điệu, lúc này lại tả được một cách sinh động sự chuyển biến tâm lí của thiếu phụ rằng chị ta vừa nhận ra mình, nhận ra tình cảnh bi kịch của mình trong ảo giác huyễn hoặc. Bề ngoài thiếu phụ nguôi quên niềm yêu rộn rã, song thực chất lại mong ngóng nó, muốn băng mình về phía nó. Sự đối lập giữa hiện thực và mơ ước tạo nên tâm thức chông chênh và thái độ lưỡng lự khá đặc trưng cho tính cách phụ nữ. Chính tâm thức chông chênh, lưỡng lự làm nảy sinh cấu trúc câu thơ hai nhịp.

Nếu câu thơ thứ nhất khai thông được những bức bách tâm lí, gợi ra một mạch cảm xúc riêng tư ở thiếu phụ. Thì câu thơ thứ hai tất yếu phải kể lể, phải giãi bày. Muốn giãi bày hết nỗi niềm u uẩn, con người phải chiếm giữ một khoảng thời gian tự sự không thể ngắn. Câu thơ thứ hai sắp đặt liên tiếp các bước sóng ngôn từ cạnh nhau nhằm kéo thời gian dài ra để người thiếu phụ kể lể. Nhưng ở bề sâu tâm hồn thiếu phụ lại toàn những cảm xúc chập chờn, đứt nối, vì vậy câu thơ cũng phải ngừng ngắt nhiều lần để chờ đợi.
Hơn nữa, xét theo ngữ cảnh bài thơ, thì Vi Thuỳ Linh đang đứng bên ngoài người đàn bà để lắng nghe, quan sát mọi biểu hiện tâm lí của nhân vật. Vì vậy, Vi Thuỳ Linh tỉnh táo hơn, bình tĩnh hơn cô ta. Mấy cái dấu phẩy được tác giả sử dụng để tách nhịp điệu bên trong cho câu thơ đã thể hiện rất rõ điều đó. Vi Thuỳ Linh nắm được hai đối cực tâm trạng và thời điểm giao thoa xoắn xuýt của chúng.

Tất cả cảm thức trên đây, giải thích rõ: vì sao câu thơ thứ hai chỉ có ba nhịp: "Người đàn bà sống một mình,/ vừa muốn quên,/ vừa mong ngóng".
Nếu chia nhịp thứ nhất của câu thơ thứ hai thành hai nhịp, thì hiển nhiên các nhịp này cũng có ý nghĩa nhất định. Song, làm vậy chưa đảm bảo tính chỉnh thể của thông báo thẩm mỹ. Vả lại bỏ mất cái ý đồ của Vi Thuỳ Linh: cắt nghĩa tâm trạng phức hợp ở người thiếu phụ từ hoàn cảnh cô ta bị chính thời gian lạnh lùng bỏ rơi, đang chới với, lõm bõm giữa đêm dài mộng mị.

Ngay từ những câu thơ đầu tiên, thiếu phụ đã xuất hiện trong vẻ tỉnh táo đến tê tái. Chị tỉnh táo nhận ra đường tình duyên đầy bất trắc của mình và hiểu giờ đây mình đang sống trong cảnh đơn chiếc. Khao khát tình yêu vẫn âm ỉ đan xen với lo âu thường trực, niềm ước ao băng  mình về phía trước đối lập với sự chối bỏ đầy u sầu khiến chị rơi vào bi kịch. Muốn thoát bi kịch tinh thần dai dẳng ấy, người đàn bà  nhất định phải chọn một con đường riêng. Con đường ấy phải thể hiện bản lĩnh của  chị. Chị phải cất giấu  thiên tính nữ của mình vào một thái độ mạnh mẽ, dứt khoát. Vậy thì câu thơ thứ ba không thể có nhiều nhịp. Cấu trúc một nhịp của câu thơ hợp lí hơn hết. Vì nó  biểu đạt tinh tế cái bi kịch lựa chọn ở thiếu phụ. Bề ngoài, thiếu phụ  muốn quên hết tất cả. Nhưng bên trong lại âm thầm gặm nhấm nỗi đau cô đơn. Và ngay khi thiếu phụ cô đơn, Vi Thuỳ Linh vẫn thấy ở chị ta tâm trạng nồng nàn, sôi sục.

Độc giả có thể chỉ ra cách ngắt nhịp khác đối với câu thơ muốn truyền đạt vẹn nguyên một nỗi đau ấy. Chẳng hạn quan niệm câu thứ ba có ba nhịp: "Chị/... cố tránh.../...con đường xưa...". Thế nhưng, cách hiểu này chẳng những gợi cảm giác về sự ngập ngừng, mỏi mệt mà còn chưa thật đúng với quan niệm của Vi Thuỳ Linh về người phụ nữ.
Tóm lại, cách thức tổ chức nhịp thơ trong thơ hiện đại rất đa dạng. Mỗi cấu trúc nhịp  có một ngữ cảnh riêng tạo ra nó, qui định sự xuất hiện của nó.
Quan điểm trên đây của tôi có thể bị nghi ngờ hoặc phủ nhận. Song, những gì mà thơ ca Việt đi qua hay chạm đến đã và đang chứng tỏ  sự thực rằng: thơ có thể bỏ rơi vần. Và dẫu thế, trong lôgíc hình thức của nó, không bao giờ chối từ nguyên tắc cấu trúc nhịp điệu. Những lời thơ văn xuôi, sở dĩ được xếp vào phát ngôn thơ hiện đại, bởi tác giả của những bài thơ ấy sáng tạo ra một cấu trúc nghệ thuật mới có tính thơ. Tính thơ biểu hiện ở tính có nhịp điệu và nhiều yếu tố khác nữa.

T.T.K
(nguồn: TCSH số 240 - 02 - 2009)

Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2012

Nguyễn Minh Châu
Chiếc thuyền ngoài xa

Trưởng phòng tôi là người sâu sắc, lại cũng lắm sáng kiến đến cái mức có khi bọn chúng tôi trong cơ quan phát mệt vì anh.
Trước đây chừng dăm tháng, để chuẩn bị cho tấm lịch năm sau, anh tỏ ý không bằng lòng với cách làm ăn từ trước tới giờ - Sang năm chúng ta sẽ đem đến cho mỗi gia đình một bộ sưu tập chuyên đề về thuyền và biển - anh nói quả quyết - Thôi, bỏ cái lối mỗi thứ một tí đi. Phải có một bộ sưu tập chuyên đề. 12 tháng là 12 bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển. Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật.
Chúng tôi xách máy lên đường, suy nghĩ, chọn cảnh, bấm máy suốt năm tháng. Và tất cả những gì thu được bằng ánh sáng đen trắng trên giấy ảnh đang được bày ra la liệt trên hai chiếc bàn ghép lại, và quả tình lúc đó tôi đã lấy làm bằng lòng lắm, đoán chắc không còn phải xách máy đi chụp bổ sung như mọi năm nữa.
Làn khói thuốc lá cuộn phun ra mù mịt trước cặp mắt đầy tinh khôn của trưởng phòng đang nheo lại sau mắt kính lão. Đột nhiên trưởng phòng quay sang phía tôi hỏi:
- Bây giờ đã là tháng mấy nhỉ?
- Tháng bảy. - Tôi đáp với một vẻ dè chừng.
- Tháng này ở biển vẫn còn sương chứ?
- Chỉ có bão táp với biển động. Muốn lấy sương thì phải nghĩ đến từ tháng ba cơ.
- Này anh Phùng - trưởng phòng dường như đã nhìn thấy rõ mọi ý nghĩ ngần ngại của tôi, cho nên anh vừa nói vừa nhăn nhó cái mặt lộ vẻ đau khổ - tôi cho anh một tháng, một tháng là đủ chứ gì?... Anh giúp tôi thêm một cảnh buổi sáng có sương đi.
- Trời ơi - tôi nhặt một bức ảnh ngay trong tầm tay - với hàng trăm bức ảnh đẹp, chụp công phu thế này mà anh... - Đẹp thì đẹp thực - anh cướp lời tôi - Và nhất là lại có hồn nữa. Đúng là những bức ảnh nghệ thuật. Nói thực tình năm nay các anh đi về, khác với những năm khác, tấm nào ít nhiều tôi cũng thích. Nhưng không thể chọn đủ cho mười hai tháng, vẫn đang còn thiếu một tờ.
ở đời cái gì cũng thế, con người bản tính vốn lười biếng, đôi khi mình hãy cứ để cho mình rơi vào hoàn cảnh bị ép buộc phải làm, không khéo lại làm được một cái gì.
Năm ngày sau tôi đã có mặt ở một vùng biển cách Hà Nội ngoài sáu trăm cây số. Tôi vác máy tới một dải bờ cát nằm "phục kích" thiên nhiên ở cái khoảng giao điểm ngày vừa rạng, đêm chưa tắt hẳn, bấy giờ cũng là lúc những chiếc thuyền đánh cá bằng vó bè hiện ra trong khoảng mờ tỏ của bình minh.
Thực ra đi chuyến này tôi có ý muốn trở về thăm một vùng chiến trường cũ ở đấy tôi có một thằng bạn vừa là đồng hương, vừa là đồng đội đã từng mười năm ở với nhau trên rừng A So, trước đây là một trung đội phó bộ binh nổi tiếng hay đùa tếu và bây giờ, lạy trời, ở ngay cái vùng biển ấy hắn ta đang làm một thứ công tác... nghiêm túc đến mức chẳng ai có thể tưởng tượng, chính hắn lại có thể làm nổi, mà trong thực tế hắn ta đã làm hai ba năm nay chứ không ít. Đời chúng tôi, cái đám lính của một thời chống Mỹ, từ sau bảy nhăm thật chẳng ít chuyện trớ trêu và bất ngờ.
Thật ra ở đấy chưa phải là biển mà mới chỉ là một vùng phá ăn sâu vào đất liền, chạy quanh quất như chơi trò trốn tìm giữa các thôn, ổ, chợ búa trong một phạm vi hàng mấy chục cây số. Chẳng phải nói, cái vùng nước mà tôi vừa mới vác máy ảnh đến để chụp bổ sung cho bộ sưu tập thật là thơ mộng, và nhất là dường như trong suốt dải bờ biển của khắp cả nước, chỉ ở đây vào giữa tháng bảy là còn sương mù. Nơi đây, nếu bỏ ra ngoài tầm mắt những bãi xe tăng vứt lại hồi "tháng ba bẩy nhăm" (bây giờ sau gần mười năm, đã bị hơi nước mặn gặm mòn và làm cho sét gỉ), vùng phá nước có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu đang ấp vào tâm hồn anh. Tôi trở nên ngây ngất vào mỗi buổi sáng, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà đượm một sắc giữa xanh và xám, bầu trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại; giữa trời và nước ấy chỉ có một chiếc thuyền của một gia đình làm nghề vó bè đang tỏa khói bếp giữa phá - chiếc thuyền đứng im như làm bằng các-tông dán vào cảnh vật êm ả.
Hai ngày đầu, suýt nữa tôi đã quyết định đưa vào tờ lịch tháng bảy khung cảnh người ta đẩy một chiếc thuyền xuống nước. Đó là một chiếc thuyền mới đóng xong vẫn còn thơm mùi gỗ lẫn mùi dầu rái. Tôi đã chọn được một thằng bé khoảng lên năm có đầy đủ ngoại hình con trai một nhà hàng chài, lại có cặp mắt thật đen gợi cho tôi nghĩ đến con mắt người ta vẽ trên đầu mũi thuyền, thằng bé đánh trần, lội ra đứng giữa những lượn sóng bạc đầu giang tay vứt một nắm phoi bào ra thật xa. Trong khi đó, ở trên bờ, bố mẹ nó và những người lớn đứng xếp hàng dọc ghé vai vào hai bên mạn chiếc thuyền mới. Tôi chỉ cần chụp đặc tả những chiếc vai trần của ngư phủ cùng với một hàng bàn chân to bè của họ dậm lún vào cát.
Nhưng tôi vội thôi ngay cảnh đẩy thuyền đầy không khí vui nhộn hơi thô lỗ và thật hùng tráng. Thất bại thấy trước là tôi đã không làm sao thu được vào ống kính khoảnh khắc chiếc thuyền đập mình xuống nước làm vỡ tung toé từng đám bọt sóng trắng xoá.
Tôi cũng quyết định thôi không lấy cảnh sương và cát như trưởng phòng ở nhà đã gợi ý, mặc dầu có những đêm thật lý thú, tôi ra ngủ ngay giữa bãi cát ven bờ phá, theo lời rủ rê của một thằng bé mặt mũi xấu xí nhưng có một trí nhớ khác thường, quần áo dính đầy nhựa cây, nó là đứa cháu ngoại của một ông lão làm nghề sơn tràng ở tận trên miền rừng A So, hai ông cháu lái một chiếc xe Reo của gia đình chở gỗ về bán cho xưởng đóng thuyền. Trong những đêm như thế, thằng nhóc tận trên rừng xuống và tôi như hai nhà hiền triết nằm kê đầu trên mười ngón tay đan vào nhau, nằm ngửa sóng đôi bên nhau, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng mờ trắng của sương đêm, cùng hồi hộp chờ một tiếng vạc rất nhỏ kêu thảng thốt trong bầu sương tít trên cao, nghe như vọng về từ một thời hồng hoang nào đó, cái thời chung quanh vùng biển này chỉ có lau lách và tiếng sóng vỗ, chưa có người.
Thế rồi cuối cùng, tìm đi kiếm lại, vác máy ảnh tha thẩn suốt một tuần lễ, tôi quyết định thu vào tờ lịch tháng bảy của năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc nhập nhoạng sáng. Ai đã cầm máy ảnh có kinh nghiệm đều biết đó là một cảnh chết cháy - một đề tài đã có quá nhiều người khai thác, đã từng để lại những bức ảnh thật đẹp, đầy chất thơ của những người cầm máy ảnh có tên tuổi.
Cái gì đã xui khiến tôi tự thách thức bằng cái việc mạo hiểm ấy? Có lẽ trước hết, không phải do sự hấp dẫn của hình ảnh mà chính là những tiếng động đầy vẻ náo nhiệt ở cách xa hàng cây số cũng nghe tiếng của một nhóm thuyền đánh cá đêm bằng vó bè. Tôi chỉ được nghe cái âm thanh của sự làm ăn có cái gì như ma quái ấy vào những đêm thật tối trời và chỉ được nghe thấy vào quãng gần sáng, vào lúc mà thằng Phác - thằng bé từ trên rừng "hạ sơn" xuống đã nép vào sườn tôi ngủ say như chết sau khi nó cặn kẽ giải thích cho tôi nghe cuộc sống của những giống chim trên rừng, trước mùa thu, trước mùa giá rét rất lâu, chúng đã nháo nhác rời tổ xây trên các lùm cây dẻ um tùm để làm những cuộc di cư.
Không phải ngay trong mấy ngày đầu mới đến mà về sau, khi đã chụp trọn gần một cuốn phim, tôi mới có dịp hiểu đôi chút về cách làm ăn lâu đời của những "tổ hợp tác" gồm những chiếc thuyền đánh cá không có bến này. Bao giờ họ cũng chỉ liên kết với nhau chỉ trong một đêm hoặc một ngày chứ không lâu. Thường thường mỗi thuyền là một gia đình, ngoài thuyền lớn còn vài chiếc mủng để đi lại. Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào.
Vào một buổi sáng tôi thức dậy. Đàng đông đã sáng trắng. Trên một nửa vòm trời sao đã lặn hết. Những đám mây hình vỏ sò cứ hồng lên dần, trong khi đó, mặt biển tuy đã sáng rõ, đến cái mức đứng trong bờ cũng nhìn thấy từng đường gấp nếp lăn tăn trên mặt tấm thép dát màu xám đục, nhưng sao mà tẻ nhạt, tiếng sóng ồ ồ dội vào giấc ngủ suốt đêm chạy trốn đi đâu hết, biển im thít và không màu sắc, như một con sứa khổng lồ giạt vào bãi.
Ngay chỗ bãi xe tăng nhìn ra, một nhóm chừng dăm chiếc thuyền vó vừa tắt đèn. Những chiếc măng sông treo thõng giữa lòng các tấm lưới đã tắt hết nhưng những đợt tiếng la thét vẫn cứ vang lên. Đó là đám người đã được phân công làm công việc xua cá vào lưới. Phần nhiều đàn bà, trẻ con, họ ngồi trên những chiếc mủng lúc nào cũng thả trôi lượn lờ mé ngoài. Có khi tản mát mỗi nơi một chiếc. Số mủng bất chợt được tập hợp lại, từ bốn góc hối hả chèo tới. Đến cự ly cách mũi thuyền chừng trăm mét, tất cả buông chèo vớ lấy hai gióng tre khô vứt trong lòng mủng gõ ầm ầm, có người dùng ngay bơi chèo gõ vào thành mủng, tay gõ miệng hét:
- Hới, hới...
Trong mấy cái phút ấy, tôi quỳ một chân trên nền cát ướt, máy đã đặt sát vào mắt như một người đi săn chỉ rình ít phút nữa con thú sẽ tuông ra khỏi cánh rừng, tôi chờ cái lúc năm sáu chiếc lưới vó cùng một lúc từ từ dâng lên.
Tôi bấm máy lia lịa. Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.
Nói chung tôi đã tìm được một bố cục chặt chẽ, và tôi lại có tính duy tâm nghề nghiệp, tôi lại còn tin vào cái ngẫu nhiên đầy "số đỏ" của tôi nữa. Tôi nghĩ rằng với những tay nhiếp ảnh nghệ thuật, nếu không có thêm sự sắp đặt đầy tài tình của ngẫu nhiên thì với tài ba đến bao nhiêu, anh cũng chỉ... thu được những tấm ảnh vô hồn.
Cũng như lúc tụ lại, cái đội hình của sự làm ăn trôi nổi trên mặt nước tản ra rất nhanh. Đây là mẻ lưới cuối cùng. Trong nháy mắt, trước mặt tôi chỉ còn một khoảng phá nước trống không.
Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi thay phim lúc ngẩng lên thấy một chuyện hơi lạ: một chiếc thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo thẳng vào trước mặt tôi.
Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh "đắt" trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong gần tâm hồn.
Chẳng phải lựa chọn xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm "liên thanh" một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pratica cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại.
Tôi chắc mẩm ngay trong ngày hôm nay hoặc sáng mai đã có thể nhẩy lên tàu hỏa trở về, nếu cái anh bạn đồng ngũ không cố níu giữ ở lại chơi thêm vài bữa.
*
* *
Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: "Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ".
Chắc chắn họ không trông thấy tôi. Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!".
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy.
Tất cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác - thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.
Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là nó khỏe đến thế!
Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền giang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Không hề quay mặt nhìn lại, chỉ có tảng lưng khum khum và vạm vỡ càng có vẻ cúi thấp hơn, nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng.
Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã.
- Phác, con ơi!
Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những giòng nước mắt, nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.
Thế rồi bất ngờ người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi cát xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc thuyền.
Khoảnh khắc sau, bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ. Giữa tiếng sóng ngoài khơi dội những tiếng kêu ồ ồ vào cõi im lặng, chỉ có tôi và thằng bé đứng trơ giữa bãi xe tăng hỏng, trên tay thằng nhỏ vẫn cầm chiếc thắt lưng, hai chúng tôi đưa mắt ngơ ngác nhìn ra một quãng bờ phá vừa ban nãy chiếc thuyền đậu.
Như trong câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất.
*
* *
Tôi bước về phía nó. Nhưng thằng bé không cho tôi lại gần. Tự nhiên thằng nhỏ vô cớ đâm ra thù ghét cả tôi - hết sức thù ghét, nhìn vào hai con mắt của nó, tôi đọc thấy được điều đó.
Mà tại sao từ trước tới giờ tôi không để ý nhỉ, lần đầu tiên tôi sực nhận thấy nó chính là một thằng bé vùng biển. Những món tóc vàng hoe có chỗ đỏ quạch như mớ lưới tơ đã bợt bạt đang tỏa ra mùi nước mặn che lấp gần hết khuôn trán nhỏ và cặp mắt đầy vẻ ngây thơ, lúc này chả khác nào cặp mắt của một chú hổ con từ miền rừng vừa lạc về.
Mấy ngày sau thằng Phác đối xử với tôi như một kẻ hoàn toàn xa lạ, như chưa bao giờ trò chuyện, ngủ chung với tôi. Mỗi lúc bắt gặp tôi khoác chiếc máy ảnh đi trên bãi cát, nó vẫn nhìn tôi bằng con mắt âm thầm giấu kín đầy một sự thù ghét - và tôi hiểu rằng tất cả lỗi lầm của tôi chính là ở chỗ tôi đã trót có dịp biết được tất cả mọi việc trong nhà nó, cái thằng trẻ con lạ kỳ nhất trần đời.
Tôi đang tìm cách dỗ dành để gần nó, lại bắt đầu làm quen trở lại với nó một lần nữa, cái chú chó sói con ấy, thì đến là quá quắt, thằng bé thông minh và dễ thương đã hoàn toàn biến thành một đứa trẻ độc ác và mất dậy, nó hét lên trước mặt tôi bằng giọng the thé đầy giận dữ: "Hãy cút đi! Cút đi!". Chính lúc ấy là lúc chiếc thuyền vó bè lại hiện ra trong làn sương sớm của một buổi mai, sau lần trước ba hôm.
Tất cả diễn ra y như lần trước. Chiếc thuyền đâm vào đúng quãng bờ phá ngày hôm trước - từ đó đi bộ vào bãi xe tăng hỏng rất gần.
Và vẫn như lần trước, người đàn bà lội xuống trước với cái khuôn mặt cúi gằm xuống, và những bước chân thoăn thoắt đi lên bãi cát. Nhưng khi lão đàn ông vừa rời thuyền để đuổi theo người đàn bà thì trong lúc ấy, ngay sau lưng lão, một đứa con gái cũng tượt xuống ở đằng lái, bơi vào.
Đứa con gái trạc 14, 15 tuổi. Đấy là trông vóc người và mái tóc xõa ngang vai - chứ cũng có thể con gái vùng biển ở cái vóc dạng ấy, chỉ mới 12, 13. Nó mềm mại và nhanh như một con vượn đen tuyền trong bộ quần áo đen ướt rượt bó sát vào mình. Trên đôi cẳng rám nắng, con bé chạy như bay về phía chỗ thằng Phác đứng.
Ngay từ đầu thằng bé hình như muốn tránh giáp mặt đứa con gái nhưng không thoát, thực sự là đứa con gái lớn hơn và có vẻ rất khỏe.
Hai đứa trẻ vật nhau. Có một lúc thằng Phác vùng ra được khỏi đứa con gái, định bỏ chạy, nhưng chỉ sau vài sải chân rượt sát ngay sau lưng, đứa con gái đã nhanh nhẹ giơ tay túm được vạt áo thằng Phác, lôi giật lại.
Đứa con gái - mà tôi đoán là con chị - đã đè ngửa thằng bé ra giữa bãi cát và đến bây giờ thì tôi mới hiểu, đứa con gái đã rút ra được từ trong cạp quần đùi của thằng bé một vật sáng loáng. Trời ơi, đó là một con dao găm.
*
* *
Đẩu, anh bạn chiến đấu cũ lái Hon-đa đến đón tôi ở một trạm xá xã. Những người thợ xưởng đóng thuyền đã dìu tôi từ bãi tăng về đấy chưa đầy một ngày.
Lão chồng - cái lão đàn ông độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian ấy đánh tôi hoàn toàn vì mục đích tự vệ. Tôi nện hắn cũng đã khiếp. Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh.
Đẩu đưa tôi về cơ quan của anh. Cô y tá của cơ quan tòa án huyện, một cô gái chưa chồng, đã luống tuổi và béo phục phịch nhận lệnh của thủ trưởng Đẩu mang túi thuốc tới.
Dưới mắt cô y tá, mấy vết thương xoàng trên trán tôi chả khác nào những vầng hào quang của một người anh hùng. Vừa băng lại các vết thương cho tôi cô vừa kể lể bằng tất cả giọng phẫn nộ thói tàn nhẫn của dân đàn ông đánh cá trong vùng địa phương này - do phong tục để lại.
- Hãm bớt ngọn lửa căm thù xuống bà chị ạ, dù sao thì đàn ông cũng cần, đôi khi rất cần - dù là chánh án của tòa án huyện, Đẩu vẫn không chịu bỏ cái thói hay bông phèng.
- Thà tôi chết già, các anh đừng tưởng, thà tôi làm gái già suốt đời! - Cô y tá luống tuổi cứ chĩa mũi kéo đang kẹp một dúm bông đã tẩm cồn vào giữa mặt Đẩu. Anh chỉ nhe răng cười. Vừa tha được tôi về đến nơi là Đẩu đã chúi mũi vào giữa hàng núi hồ sơ. Những vụ kiện tụng. Những vụ án hình sự lặt vặt cũng có, những vụ nghiêm trọng cũng có.
Vài ngày sau, những vết thương của tôi đã lên da non. Ngồi soát lại tất cả những cuốn phim đã chụp, dù sao thì tôi cũng đã thấy yên tâm về công việc. Tôi tin là nếu chiếc Pratica trung thành với tôi thì phen này tôi có thể đánh ngã bất kỳ một bức ảnh mô tả phong cảnh biển nên thơ nào từ trước.
Tôi ngỏ ý với Đẩu muốn trở lại cái xưởng đóng thuyền nằm ngủ giữa trời với thằng bé một tối, trước khi trở về Hà Nội. Nhưng Đẩu bảo tôi nán lại với anh thêm vài ngày.
Vào một buổi sáng có một chiếc mảng chở hai người đàn bà ghé vào bến tòa án.
Tôi thầm cảm ơn Đẩu đã giữ mình ở nán lại. Nếu thiếu nữ không đi theo mẹ đến tòa án - người đàn bà mặt rỗ hai lần tôi giáp mặt trong bãi xe tăng hỏng - thì chắc chắn tôi không thể nhận ra đó chính là đứa con gái ướt sũng từ đầu đến chân, đã vật nhau với thằng Phác để tước lấy con dao găm.
Thiếu nữ mảnh dẻ trong tấm áo cánh mầu tím nhạt. Lại một cặp mắt như cặp mắt của đứa trẻ lên năm mà tôi đã chọn để cầm vứt một nắm phoi bào ra giữa ngọn sóng bạc đầu - một cặp mắt đen của chiếc thuyền mới đóng. Tuy chẳng hiểu chút gì về nghệ thuật điện ảnh, nhưng bất giác tôi cứ nghĩ giá sau này cần một vai như kiểu nàng tiên cá thì nhất thiết phải chọn người thiếu nữ này. Tôi tự hỏi chẳng lẽ cái nhan sắc đang độ trẻ con như đúc từ trời biển trong suốt, nên thơ này lại được tách ra từ da thịt của một người đàn bà hàng chài xấu xí và đau khổ?
Người đàn bà dặn con gái hãy ở lại dưới thuyền rồi với dáng đi mệt mỏi, chậm chạp như một bà già, trèo lên những bậc đá xếp từ bờ phá lên một con đường nhựa đã long lở, hai bên đường phơi đầy lưới chài, của phố huyện vùng biển.
Người đàn bà vẫn mặc chiếc áo mầu bạc phếch vì nước mặn, một miếng vá bằng vải xanh bằng bàn tay trên vai, những nốt rỗ trên mặt có vẻ thưa ra, đứng trong phòng làm việc của Đẩu, tôi nhận ra ngay mụ. Hôm nay người đàn bà rời chiếc thuyền vó bè "đổ bộ" lên tận đây theo giấy triệu tập của tòa án huyện.
Đây là lần thứ hai, người đàn bà được Đẩu mời đến về công việc gia đình.
Cũng không phải là lần đầu đến một nơi công sở nhưng người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng - cái vẻ lúng túng, sợ sệt mà ngay lúc mụ đứng giữa bãi xe tăng cũng không hề thấy có.
Người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má liền tìm đến một góc tường để ngồi.
Ngồi sau một chiếc bàn lớn, Đẩu nhổm dậy chỉ chiếc ghế mây trước mặt, cố làm ra vẻ thân mật;
- Chị ngồi lên đây, sao lại thế, hãy ngồi lên chiếc ghế này...
Đẩu phải nói đến lượt thứ hai, mụ mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại.
Đẩu hỏi:
- Thế nào, chị đã nghĩ kỹ chưa?
Người đàn bà ngước lên nhìn Đẩu, rồi lại cúi mặt xuống.
- Thưa đã...
Đẩu gật đầu. Anh đứng dậy. Tự nhiên anh rời chiếc bàn đến đứng vịn vào lưng ghế người đàn bà ngồi giọng trở nên đầy giận dữ, khác hẳn với giọng một vị chánh án:
- Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào?
Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay vái lia lịa:
- Con lạy quí tòa...
- Sao, sao?
- Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...
Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngoài và phòng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước ra.
Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay quanh chiếc ghế như bị kiến đốt, và về sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng tòa án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân chứng.
- Chị cứ ngồi nguyên đấy! - Đẩu nói và với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ công lý vừa có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn lớn mà là tôi, với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên mặt.
- Tùy bà! - Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của một vị chánh án - chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hòa thuận...
Đang ngồi cúi xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu ngơ ngác.
- Chị cám ơn các chú! - Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết - Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...
Chỉ mấy lời mào đầu ấy, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ khác, ngôn ngữ khác.
Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi. Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi, một người đáng lẽ mụ phải biết ơn...
Nhưng người đàn bà để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của chúng tôi. Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia con đường chính của phố huyện ở đấy, thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc mủng.
Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:
- Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả (1) về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc (2), ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối... cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
- ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà đánh...
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông...
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?
- Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? Đột nhiên tôi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...
Viên chánh án huyện rời chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên những chồng hồ sơ, giấy má. Đẩu đi đi lại lại trong phòng, hai tay thọc sâu vào hai bên túi chiếc quần quân phục đã cũ. Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.
Người đàn bà đã khóc khi nghe tôi nhắc đến thằng Phác. Nhưng tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu cái lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài. Trong cái đám con cái đông đúc đang sống ở dưới thuyền, mụ không yêu một đứa nào bằng thằng Phác, cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết - nếu không có cách mạng về.
Mụ cho chúng tôi biết, vì sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó, mụ đã phải gửi nó lên rừng nhờ bố mình nuôi đã nửa năm nay. ở với ông ngoại, thằng bé sướng hơn ở trên thuyền với bố mẹ. Nhưng hễ rời ra là nó trốn về. Thằng bé tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh.
Chiều hôm ấy trong khi Đẩu gặp lão đàn ông để giáo dục răn dạy lão thì tôi trở lại xưởng đóng thuyền. Vắng thằng Phác, dù sao cái bãi cát cũng như cả vùng phá nước trở nên trống trải thế nào ấy. Đêm, những đàn chim di cư vẫn vỗ cánh trong sương, bay qua vùng phá. Tôi khoác chiếc máy ảnh đi lang thang cho đến tận khuya, đã mỏi cả chân, tôi đến ngồi bên một ngọn lửa. Nhím phoi bào bắt cháy sang mấy cái đầu mẩu gỗ cưa ra từ các lẻ ván của một chiếc thuyền mới vớt lên được, sau vụ đắm thuyền trong vụ bắc năm ngoái.
Gần sáng trời trở gió đột ngột, từng tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và biển bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu ngoài cửa lạch nổi cồn lên cao như những ngọn núi tuyết trắng.
Trong phá, các thứ tầu thuyền đều tìm vào bờ để trú, duy ở giữa phá chẳng hiểu vì sao vẫn còn thấy một chiếc thuyền vó bè đang đậu.
Gió rú ào ào chung quanh chiếc xe Reo vừa mới ở trên rừng xuống, chưa giỡ gỗ xuống hết. Cái ông lão đã ngoài sáu mươi mà vẫn còn theo đuổi nghề sơn tràng đang ngồi bên bếp lửa giữa trời, vẫn đặt hai con mắt đầy vẻ lo lắng ra ngoài mặt phá, nơi có chiếc thuyền.
Cái bếp lửa cũng bị gió ném tung ra khắp bãi cát, những tàn lửa đỏ rực bay quẩn lên chung quanh chỗ tôi và ông lão ngồi. Tôi xem lại xoong cơm đã sống nhăn hộ ông lão, đoạn gào lên:
- Chiều gió này không khéo bão cấp 11 rồi?
- ừ, ừ... ! - Ông lão lẩm bẩm, vẫn không rời mắt khỏi chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá.
*
* *
Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.
Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.
8-1983